Nền văn hóa của người Trung Quốc đã kéo dài 5.000 năm trong suốt chiều dài lịch sử. Trong nó các dân tộc không ngừng phát triển văn hóa của bản thân mình tạo ra những nét riêng, độc đáo. Những giá trị văn hóa này được đông đảo mọi người biết đến, quảng bá ra khắp toàn cõi Trung Hoa và ra toàn thế giới. Có những bí thuật được những người dân của từng dân tộc, từng bộ lạc lưu truyền kín đáo để tránh khỏi ánh mắt của người ngoài và coi đó như là điều bí mật của dân tộc mình. Một trong những bí thuật đã từng mang lại sự ám ảnh trong dân gian, mỗi khi nhắc đến là vu thuật. 

Trong vu thuật con người mượn sức mạnh của những thế lực tâm linh thần bí thường là dã quỷ để tấn công những nạn nhân nhằm phục vụ một mục đích nào đó. Vu thuật được người Miêu, một dân tộc thiểu số Trung Quốc sáng tạo ra và được lan truyền khắp dân gian. Sức mạnh thần bí của chúng đã khiến các triều đại phong kiến Trung Quốc bằng mọi cách để cấm đoán, ngăn chặn sự phổ biến nhằm tránh biến động quá lớn trong xã hội. Trong bài lần này chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về những tà thuật trong vu thuật được nhắc đến nhiều nhất trong sử sách, thứ từng được người Trung Quốc phát minh ra và gây ra bao nỗi khiếp đảm cho những người từng chứng kiến sức mạnh của nó.

 


Trong quá khứ dân gian từng lưu truyền rất nhiều các truyền thuyết đáng sợ về vu thuật, đặc biệt tại vùng Tương Tây. Cho đến nay vẫn còn có lời đồn về 3 loại tà thuật cổ là cổ trùng, bùa miêu quỷ và tình Si độc. Cổ trùng hay độc trùng là một loại chất độc được các vu sư nuôi dưỡng và sẽ sử dụng trên nạn nhân. Còn bùa miêu quỷ là phương pháp sử dụng những con dã quỷ,sau khi được triệu hồi vào xác của những con mèo, sau đó sai khiến chúng tìm đến những nạn nhân, gieo rắc mầm bệnh và tai ương cho họ, đồng thời thu thập phước đức của họ về cho mình. Trong khi đó tình si độc là phương pháp sử dụng trùng độc có tên gọi là Si để gieo rắc mầm tai họa đến với những người, mà bản thân mong muốn hoặc để khống chế một người nào đó phải làm theo ý mình.

Thuật cổ trùng thường được nhắc đến nhiều nhất trong phim ảnh cũng như tiểu thuyết Võ Hiệp, thậm chí nó còn liên quan đến những thảm án trong triều đình, từng một thời làm chấn động lịch sử Trung Hoa. người Miêu ở Tương Tây từ xưa vẫn nổi tiếng với nuôi cổ trùng, chúng sẽ được sử dụng trong các nghi thức tà lễ bùa phép, có thể gây ra bệnh tật và chết chóc.  Cổ thuật này được đồn đại là thần thông quảng đại, chỉ một con sâu nhỏ cũng có thể khiến người ta phát điên hoặc tệ hơn thì toàn thân thối rữa.

Theo truyền thuyết Trung Quốc, hồn của trùng có thể nhập vào các loài động vật khác để mượn thân thể của chúng hoặc gây hại. Tương truyền rằng từ nhiều thế kỷ trước ở vùng đất nọ có người tên Vương Hán là từng nhân buôn bán vải vóc, vì không gặp thời mặc thô lỗ liên miên nợ nần chồng chất, gia đình anh cũng vì lý do đó mà thường xuyên trở nên bất hòa lục đục. Đang lúc Vương túng quẫn thì có Lưu tiên sinh vốn là bằng hữu của cha Vương hồi còn sinh thời tới thăm, biết Lưu tiên sinh giỏi về phong thủy bùa chú. Vương Hán cầu xin ông ta giúp mình nuôi cổ trùng để cải mệnh nhưng bị Lưu tiên sinh một mực từ chối. Hắn nài nỉ mãi không được liền nhắc “năm xưa tiên sinh từng được cha tôi cứu mạng tới nay vẫn chưa được bảo đáp, chẳng lẽ đã quên ơn rồi”

Lưu tiên sinh không cách gì từ chối được, đành phải giúp Vương Hán, đồng thời ông cũng nói với Vương Hán về những tác hại mà nó có thể đem lại. Nhưng Vương Hán vẫn một mực muốn dùng thứ cổ thuật này. Lưu tiên sinh bắt về rất nhiều trùng độc, ông bỏ vào cùng một hũ sành để chúng cắn giết lẫn nhau. Trải qua nhiều trận chiến, con trùng cuối cùng là con còn sống và độc địa nhất. Lưu tiên sinh lại nuôi con trùng ấy bằng các loại cỏ độc, đồng thời bảo Vương Hán mỗi ngày nhỏ một giọt máu vào hũ cho con trùng uống, được 40 ngày thì con trùng chết. Lưu tiên sinh bảo Vương Hán bỏ xác nó vào cái lư hương bày ra thờ cúng như tổ tiên, tới đêm mà phát ra ánh sáng như màu lục nhạt ấy là đã thành công.



Sau khi xong việc, Lưu tiên sinh lập tức rời đi ngay. Từ hôm ấy, Vương Hán có thể cảm nhận ứng được lời nói của cổ trùng, trao đổi với nó và nhờ nó giúp đỡ chuyện làm ăn.

Cổ trùng yêu cầu Vương Hán cũng cho nó mỗi ngày hai quả trứng gà, tới khi mang xuống, hai quả trứng tuy không bị đập vỡ nhưng bên trong lòng đỏ lòng trắng đã bốc hơi đi đâu mất. Trong nhiều tháng tiếp theo, Vương Hán quả nhiên mua may bán đắt, chuyện làm ăn nhờ thế mà phát lên trông thấy.

Cổ trùng lại yêu cầu Vương Hán cúng cho mình hai con gà sống, và lần này thì mỗi khi dọn dẹp Vương Hán đều thấy hai con gà chỉ còn lại một nhúm lông. Sau một năm Vương Hán giàu có. Cổ trùng lại yêu cầu Vương Hán phải xây một linh đường to lớn, hương khói nghi ngút và đèn nết phải thắp sáng suốt ngày đêm. Việc này tuy tốn kém nhưng Vương Hán vẫn gắng làm theo. Lại qua thêm nửa năm, một hôm cổ trùng nói “nay ta ăn thịt gà đã ngán lắm rồi, hãy mang trẻ con về cho ta ăn”. Vương Hán tất nhiên không đồng ý, tuy nhiên nếu không đáp ứng thì cổ trùng sẽ ăn con gái Vương Hán.

Lúc này Vương Hán mới cảm nhận được sự nguy hiểm của con trùng, nó không hề giúp Vương Hán không công. Sợ hãi, Vương Hán mới đem cái lư hương đựng xác con trùng ném xuống sông, nào ngờ lúc quay về nhà thì thấy cái lư hương vẫn đang nằm trên bàn thờ, xác con trùng cũng còn người trong đó. Vương Hán sợ quá lại chất củi đốt cái lư hương, nhưng củi cháy hết mà cái lư hương và xác trùng không suy chuyển. Cổ trùng giận dữ nói “ ta là vô hình trong không gian này, ngươi không thể hại được. Ta ta đã giúp người giàu có nay ngươi lại không đáp ứng yêu cầu của ta có phải muốn chết hay không”.

Vương Hán tuy tham lam nhưng không có ý muốn hại người bèn khẩn cầu cổ trùng cho hắn thư thả mấy ngày để nghĩ cách. Cổ trùng lên hạn cho Vương Hán sau 3 ngày mà không có trẻ con thì nó sẽ ăn thịt cả gia đình hắn. Vương Hán biết đại họa lâm đầu, bèn tới nhà Lưu tiên sinh cầu cứu. Tới nơi mới thấy Lưu tiên sinh hai mặt đã mù, ngũ quan biến dạng vô cùng xấu xí. Vương Hán hoảng sợ hỏi nguyên do, Lưu Tiên Sinh nói “người tạo ra cổ trùng là trái với đạo trời tất yếu phải nhận quả báo này. Nếu không vì báo đáp ơn cứu mạng của cha ngươi ta tuyệt đối không làm chuyện thương thiên hại lý ấy”.

Vương Hán kể lại câu chuyện của mình mong mỏi Lưu tiên sinh chỉ cách thoát khỏi nó. Lưu tiên sinh đáp “lòng tham của người ta không có đáy nên không bao giờ chịu an phận, mới sinh ra đủ chuyện như vậy. Ngươi vì muốn cải mệnh mà thành, này cũng vì muốn cải mệnh mà bại. Ngươi đâu biết rằng, con trùng kia đã lấy đi rất nhiều tinh hoa của ngươi, nếu khử nó đi ta chỉ sợ số mệnh người cũng không thọ”

Thấy Vương Hán vẫn kiên quyết Lưu tiên sinh gật đầu và Vương Hán ôm lư hương đựng cổ trùng đi với mình tới miếu Thành Hoàng khấn xin Thành Hoàng ra trợ giúp trừ tà. Sau khi khấn xong Lưu tiên sinh và Vương Hán mang cái lư hương chôn sau miếu, quả nhiên lần này cổ trùng không cách gì thoát ra được. Lưu tiên sinh thở dài “cổ trùng ở dưới đất không được thờ cúng, sau 49 ngày sẽ tự tiêu biến đi lúc đó cái mệnh đen đủi sẽ lại về với ngươi, còn cộng thêm nghiệp chướng đã tạo lần này”

Quả nhiên tháng sau Vương Hán làm ăn thua lỗ, tiếp đó lại bị lừa đảo đến khuynh gia bại sản, không lâu sau hắn mắc bệnh lạ tay chân đều không nhúc cái gì được, từ đó chỉ là một chỗ như người thực vật. Nhiều năm liền mà không chết được, Lưu tiên sinh tuy mù lòa mà thỉnh thoảng vẫn đến thăm, lần nào cũng thở dài đây là do tinh hoa trên thân vương Hán đều bị cổ trùng lấy đi cả rồi khiến hắn sống không bằng chết chỉ có thể như vậy chọn đời, chứ không thuốc thang nào chữa được. 

Kết cục nuôi cổ trùng đáng sợ là thế nhưng vẫn được các vu sư nuôi dưỡng. Bởi tương truyền cổ trùng luyện thành có linh khí lớn, giúp chủ nhân vạn sự hanh thông thăng tiến trên được quản lộ, muốn gì được nấy, có thể sát hại kẻ thù theo ý muốn mà không để lại dấu vết liên quan. 

Theo Thông Trí Lục Thư Lược của tác giả Trịnh Triều đời nhà Tống, người xưa tạo cổ trùng bằng cách, lấy tất cả những loại côn trùng có độc bỏ vào một cái vại để cho chúng cắn xé lẫn nhau, sau cùng con độc trùng con sống sót duy nhất sẽ được gọi là cổ trùng hay còn gọi là cổ mẫu. Dân gian tương truyền những người nuôi cổ trùng thường chọn ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch mà chúng ta thường gọi là ngày Tết Đoan Ngọ, để luyện chế độc trùng, vì đây là ngày độc khí thịnh nhất. Trong ngày này các loài độc trùng sẽ mạnh mẽ nhất, độc tăng nhanh chóng.



Sách thống trí Lục Thư Lược miêu tả chi tiết cách nuôi trùng như sau :

Người ta dùng 100 loại trùng để nuôi ,nhưng ban đầu chỉ cần 12 loại. Trước khi nuôi cổ trùng, người trong gia đình phải dọn dẹp sạch sẽ chính sảnh. Cả nhà già trẻ đều phải tắm thành tâm thành nghĩ dâng hương đốt nến trước bài vị tổ tông, im lặng khẩn cầu với quỷ thần thiên địa để được thiên địa chứng giám, linh khí của trái đất hội tụ tại nơi diễn ra nghi lễ tiến hành nuôi cổ trùng. Sau đó đào một cái hố to ở giữa chính sảnh chôn một cái vại lên xuống đất, cái vại này phải có miệng lớn, với tiện cho việc thêm nắp, hơn nữa nếu miệng vải nhỏ thì sẽ không nhìn thấy được tình hình bên trong. Nếu mọi người có thể quan sát thấy được tình hình trong cái vại họ sẽ càng dễ nảy sinh sợ hãi về thứ trong đó. 

Đến ngày Tết Đoan Ngọ thì người nhà cần phải ra đồng ruộng, tùy ý bắt 12 loại trùng đem về đặt trong vại đã chôn, sau đó đậy nắp lại. Nếu không phải bò sát bắt vào ngày đoàn Ngọ thì sẽ không thể nuôi thành cô trùng, nguyên nhân được cho rằng dịp Tết Đoan Ngọ là thời điểm sâu bọ, tà ma, các mầm mống bệnh tật hung hăng nhất do sự vận chuyển của linh khí Trái Đất. Những con trùng được lựa chọn để nuôi cổ trùng thường là rắn độc, lươn, rết, ếch, bọ cạp, giun sâu lông xanh lớn, bọ ngựa,… Tóm lại ngoại trừ những sinh vật biết bay những sinh vật có 4 chân biết chạy đều không được, chỉ cần loài trùng có một chút độc là được. Lấy 12 loại trùng này bỏ vào trong vại, tất cả lớn nhỏ trong nhà mỗi đêm trước khi ngủ đều phải khấn vái một lần không thể bỏ một ngày nào, nếu không khấn vái dễ khiến cho cổ trùng này sinh những biến hóa và hành động không tốt. 

Thêm nữa khi nuôi trùng tuyệt đối phải nuôi bí mật không cho ai ngoài những người trong nhà biết, nếu để cho người ngoài biết thì vu sư sẽ không dùng được phép thuật này, hoặc thậm chí cổ trùng sẽ quay trở lại hại chủ. Trong một năm những con trùng bị bắt về đó sẽ cắn nuốt lẫn nhau bên trong vại, con độc nhiều sẽ ăn có có ít độc, con mạnh sẽ ăn con yếu. Cuối cùng chỉ còn lại một con, con này sau 11 ngày ăn những con trùng độc khác bản thân nó cũng bắt đầu thay đổi hình thái bên ngoài, màu sắc cũng như tâm tính bản thân độc tính của trùng độc lúc này không còn như ban đầu nữa, chúng có thể coi như tổng hợp các loại độc tố của các loại trùng mà chúng đã cắn nuốt, chất độc lúc này tăng lên gấp bội lần. Theo các loại truyền thuyết cổ xưa được lưu truyền lại chủ yếu là có hai loại cổ trùng chính một loại là long cổ hình dạng giống như rồng, có thể là rắn độc hay rết biến thành. Một loại là kỳ lân cổ do ếch hoặc thằn lằn biến thành.



Sau khi hoàn thành quá trình biến đổi cho cổ trùng, chủ nhân sẽ đào cái vại lên mà cất nó vào một căn phòng kín, ít ánh sáng, ít không khí. Những người Miêu cho rằng cổ trùng thích ăn trứng chiến, mỡ heo, các loại cơm. Sau khi nuôi hơn 1 năm, cổ trùng sẽ dài hơn một trượng, chủ nhận sẽ chọn một ngày cát lợi mở nắp vại cho cổ trùng bay ra ngoài. Cổ trùng sau khi rời nhà, đôi khi có thể biến thành hình dạng như quả cầu lửa bay lượn trong rừng, có lúc có thể là cái bóng đen tới lui trong các ngôi nhà trong thôn.

Khoảng thời gian ma lực của cổ trùng mạnh nhất là hoàng hôn, lúc này dương khi chưa mất hẳn nhưng âm khi đã trỗi dậy, không khí đất trời đang có sự giao hòa giữa âm và dương. Mỗi lần sau khi trở về nhà, cổ trùng vẫn ở trong cái vại, cũng không cần cho nó ăn gì khác. Cái hay của việc nuôi cổ trùng là muốn mượn linh khí của cổ trùng khiến cho người nuôi cổ trùng làm bất cứ chuyện gì cũng rất thuận lợi. Nếu như chủ nhân muốn buôn bán kinh doanh mượn linh khí của cổ trùng có thể khiến cho việc kinh doanh phát đạt, được một vốn vạn lợi. Nếu như chủ nhân muốn thăng quan tiến chức, mượn Linh khí của của trùng có thể thăng tiến lên mây xanh, đạt được danh vọng và địa vị. Đây cũng chính là nguyên nhân cổ trùng mặc dù từng bị cấm rất nghiêm ngặt nhưng vẫn tìm được cách lưu truyền qua các thời kỳ.

Trái lại nếu như có chút sơ suất để cổ trùng làm hại người, bị người khác biết mà mờ vu sư, pháp sư cao tay đến tịch thu cổ trùng, chủ nhân nuôi cổ trùng sẽ gặp nhiều chuyện xui xẻo tai ương liên tiếp xảy ra thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng của gia đình. Gia đình nuôi cổ trùng trừ những ngày thường phải thành kính hầu hạ, thì đến ngày 24 tháng 6 âm lịch hàng năm phải làm lễ tế long trọng cho cổ trùng. Lễ tế này kéo dài 3 ngày đó sáng ngày 24 25 và 26, trong các ngày này mỗi ngày chủ nhà đều phải dùng một con heo, một con gà ,một con dê tươi sống sau đó nấu chín, đến tối khi sao đầy trời, cả nhà đem heo dê gà chặt ra bỏ vào bên trong vại. Sức ăn của cổ trùng rất lớn, ma lực rất cao. Cổ trùng rất nhạy cảm với sự xuất hiện của những người lạ, do đó lúc tế cúng cổ trùng người ngoài tuyệt đối không được tham gia, cũng không được tiết lộ ra bên ngoài, nếu không người ngoài đó sẽ bị cổ trùng tấn công nguy hiểm đến tính mạng của bản thân.