khi ra đời cách đây một thế kỷ, xe tank đã thay đổi gần như mọi học thuyết về chiến tranh và gần như mọi quân đội hiện đại đều có binh chủng tank thiết giáp của riêng mình. Nhưng cũng vì lẽ đó việc phát triển ra các vũ khí chống tank, anti Tank hay viết tắt là AT, là yêu cầu tiên quyết vì không phải lúc nào các đơn vị hay lực lượng vũ trang cũng có xe tank để đối kháng với quân địch hoặc số lượng tank quá ít ỏi hoặc bất cân xứng  với đối phương. Nếu không có trong tay một lực lượng để bẻ gãy gọng kìm thép của địch. Thì kết cục của cuộc chiến có thể đã được định sẵn từ trước khi nó bắt đầu. 


Bomb ba càng nổi tiếng trong cuộc chiến chống thực dân Pháp


Tương tự với các dạng khí tài khác sự phát triển của vũ khí chống tank cùng với xe tank luôn đi song hành với nhau vốn là câu chuyện “cây mâu và cái thuẫn”. Giáp của Tank càng dày hơn thì vũ khí chống tank càng được phát triển hơn. Cho đến nay đã có rất nhiều loại vũ khí chống tank ra đời và chúng ta sẽ lần lượt điểm danh 3 vũ khí chống tank nổi bật nhất trên thế giới.

1. Súng trường chống tank ( AT rifle ) 

Nghe có vẻ lạ lùng nhưng súng trường chính là loại vũ khí đầu tiên được sử dụng để chống tank và tự hỏi làm sao những viên đạn nhỏ bé có thể đâm lủng được lớp giáp dày của xe tank. Đáp án ở chỗ lúc xe tank mới ra đời Giáp của chúng cũng không dày lắm. Ngoài ra chưa thể có khái niệm vũ khí chống tank chuẩn nếu cấp quân đội chưa có ý niệm gì về xe tank. 


Xuất hiện lần đầu trong lịch sử chiến tranh thế giới lần thứ nhất xe Tank của liên quân Anh Pháp là sự bất ngờ lớn với lính Đức. Tuy vậy những chiếc tank đầu tiên của đồng minh tỏ ra khá chậm chạp và số lượng cũng không nhiều, người Đức đã kịp có thời gian để ứng phó với loại vũ khí mới mẻ . Cách thức chống tank đầu tiên được đề ra là …đạn ngược Reversed Bullet. Theo đó viên đạn được đặt ngược hướng lại so với thông thường, đầu tày của viên đạn sẽ đâm vào giáp của xe tank thay cho đầu nhọn, bằng cách này lực đục sẽ mạnh hơn và bào mòn dần lớp giáp ngoài. Trong vài trường hợp, viên đạn thậm chí đục thủng lớp giáp này và gây sát thương cho tổ lái bên trong, song nhìn chung đạn ngược không phải là cách tốt để đối phó với tank. Chúng còn làm hư hỏng cây súng và đôi khi làm bị thương cả chính người bắn. 


đạn K 7,92x57mm


Quân đội Đức nhanh trong chế tạo ra một loại đạn khác có tên là K Bullet với kích thước 7,92 X 57mm. Với lõi thép bên trong cho khả năng đâm xuyên mạnh hơn đạn K có 30% khả năng xuyên thủng lớp giáp dày 12-13 mm ở cự ly 100m, về bản chất thì đạn K là một dạng đạn xuyên giáp và nó còn có thể dùng để phá hoại các cấu trúc khác. Súng trường AT và đạn AP vẫn được tiếp tục sử dụng sau đó trong các cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 hay chiến tranh Triều Tiên. Với cỡ đạn ngày một lớn hơn từ 12,7 mm trở lên, tuy vậy khi giáp tank ngày một dày hơn và chúng bắt đầu được trang bị thêm các loại giáp phản ứng nổ thì vai trò của súng trường AT ngày càng bị thu hẹp. Ngày nay súng trường AT chủ yếu được dùng để phá hoại cấu trúc kiên cố như lô cốt hoặc các phương tiện bọc thép hạng nhẹ, như xe chở lính, xe chiến đấu bộ binh hoặc các trang thiết bị của tank như kính ngắm, máy dò laser, bánh xích hơn là chính chiếc tank.


 2. Lựu đạn chống tank ( AT Grenade )

Trong khi đạn thường có hiệu quả tiêu diệt sinh lực địch tính trên từng người một thì lưu đạn hoặc các loại thuốc nổ nói chung, có thể gây thương vong cho số lượng lớn hơn. Và điều quan trọng hơn là sức công phá có thể dễ dàng thay đổi chứ không cố định như kích thước các viên đạn. Người Đức nhanh chóng nhận ra có thể kết hợp nhiều trái lựu đạn dạng que của họ lại thành một trái lớn hơn hoặc quăng chúng lên những chiếc tank mắc chậm chạp của Anh. Phương pháp “nhồi” này tiếp tục được sử dụng trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, bằng cách bỏ nhiều thuốc nổ vào trong các túi cát rồi châm ngòi cháy chậm trước khi người lính ném trúng về phía những chiếc tank. Đáng chú ý hơn là các trường hợp cảm tử quân mang trên mình hàng chục trái lựu đạn rồi lao thẳng về tank đối phương để kích nổ thường được thấy ở trong cuộc chiến giữa Trung Quốc và Nhật cũng trong chiến tranh thế giới thứ hai. 


Lựu đạn No.74 của Anh


Trước đó vài năm quân đội Anh đã yêu cầu cần có một vũ khí chống tank từ li gần nhưng phải đơn giản dễ sử dụng và dễ chế tạo. Sau đó những trái lựu đạn No.74 ra đời những chúng thường được gọi là bom dính ( sticky bomb ). Những trái bom dính có cấu tạo của một trái lựu đạn thông thường được đặt trong một quả cầu bằng kính chứa đầy keo dính. Sau khi được ném về mục tiêu lớp kính ngoài vỡ ra và trái lựu sẽ bám dính vào đấy. Tuy vậy khi quân đội anh lần đầu nhìn thấy cách bomb dính hoạt động, họ đã chê sản phẩm này và nhường chúng cho lực lượng vệ binh quốc gia ( Home Guard ) sử dụng. Song về sau, khi phải đối đầu với những chiếc tank hạng nhẹ của Italia tại Bắc Phi, những chiến binh xứ sương mù đã nhận thấy tính hiệu quả của nó, bên cạnh bomb dính, lính Anh còn sử dụng một loại lựu đạn thời kỳ khác có tên là No. 68 Nhưng thay vì dùng tay để quăng thì No.68 được phóng bằng cách gắn nó vào đầu một cây súng trường rồi bắn ra. Tương tự các loại lựu đạn khác súng trường ( rifle Grenade ) khác. No.68 có các cánh đuôi giúp ổn định hướng bay và cho phép nó rơi xuống ở góc độ 90 độ. Đầu nổ của No.68 cho phép nó xuyên có lớp giáp dày 52mm. 


Panzerwurfmine của Đức và cách sử dụng


Những loại đặt AT nguy hiểm thực sự lại bắt nguồn từ người Đức, khi bắt đầu đánh vào Nga hồi 1941, binh lính Đức mang theo bên mình những trái Panzerwurfmine ( PMW)  với đầu nổ dạng lõm ( shaped charge ) nhằm tạo ra hiệu ứng Munroe. Không chỉ tiết kiệm khối lượng thuốc nổ mà còn cho sức công phá mạnh hơn. Do hiệu quả phá hủy cao thì em PMW có một người anh em là Panzerfaust cũng có cấu tạo tương tự nhưng không phải là lựu đạn. PMW có 2 phiên bản ngắn và dài, phiên bản dài được sản xuất trước với chiều dài tới 533mm về sau nó được thay thế bởi phiên bản ngắn giúp dễ mang vác hơn nhưng vẫn có cánh đuôi giúp ổn định phương bay như phiên bản dài. PMW có đầu nổ 0,5 kg và có khả năng xuyên qua lớp giáp dày 150mm ở hướng trực diện. Do vậy nó có thể phá hủy cả những chiếc xe tank có lớp giáp giày nhất lúc bây giờ . Nhưng cũng không lâu để người Nga có thể copy lại vì PMW từ các tù binh Đức. RPG-40 (1940 ) có khối lượng lồ tới 0,76 kg nhưng chỉ đục được lớp giáp dày 20mm. Mãi tới  năm 1943. Quả RPG-43 mới có các đặc tính giống PMW, khi đầu nổ lõm nặng 0,61 kg nhưng đục được giáp dày 75m. 


RPG - 6 của Liên Xô


Đến cuối năm đó, người Nga tung ra tiếp bản nâng cấp RPG-6 từ RPG-43 nhưng đầu nổ chỉ nặng 0,57 kg và đục giáp dày 100mm. Tuy vẫn kém về độ hiệu quả so với PMW nhưng cả RPG-6 và RPG-43 đều không khó dùng bằng PMW và không cần được đào tạo riêng biệt, đó là mặt trận Châu âu. Còn ở Thái Bình Dương Nhật và Mỹ không phát triển mạnh xe tank nên nhu cầu chạy đua lưu đạn này không lớn. Người nhật với phong cách tự sát đã làm ra loại mìn cây mà tại Việt Nam gọi là bom ba càng. Cây mìn này có chiều dài khoảng 1,5m có một đầu nổ HEAT ( high explosive AT ) rất lớn và được người dùng đâm trực tiếp vào chiếc xe tank cần diệt hệ quả là cả người tấn công và mục tiêu cùng bị tiêu diệt. Song với khả năng đục tới 150mm, bom ba càng được xem là một trong các loại lựu đạn AT nguy hiểm nhất trong chiến tranh thế giới thứ 2. 


 AZ-58-K-100 của Hungary


Khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc việc phát triển các loại lựu đạn AT không còn nữa, một số quốc gia Đông Âu đã thiết kế là RPG-6 của Nga và đặt lại các tên khác ví dụ AZ-58-K-100 của Hungary. Người Mỹ vốn không có nhiều kinh nghiệm làm ra lưu đạn AT này thì đã từng nghĩ đến việc nghiên cứu ngược AZ-58-K-100 để sử dụng. Song các sĩ quan cấp cao nước Mỹ lại cho rằng lựu đạn AT gây nguy hiểm cho người sử dụng hơn là mục tiêu bị tấn công nên họ đã dừng chương trình này lại. Có thể xem RKG-3 khi ra mắt vào năm 1950 là thế hệ lự đạn AT cuối cùng được nghiên cứu và sản xuất. Sau khi được ném, một chiếc dù sẽ bung ra ở đuôi của lựu đạn nhằm giúp nó rơi ổn định lên mục tiêu ở góc 90 độ, đầu nổ dạng lõm 0,57 kg của AKG-3 có thể đục thủng lớp thép dày 170mm hoặc đồng dày 220mm. Dường như trong cuộc chiến Iraq gần đây nhất vào năm 2003 đến năm 2011, AKG-3 đã được quân đội nổi dậy Iraq sử dụng để chống lại các phương tiện chiến đấu mặt đất nhưng không còn giáp dày như xe tank buộc quân đội Mỹ phải bổ sung thêm lớp giáp chuồng để cách ly đầu nổ ra ngoài thân xe.


3. Súng chống tank AT 

Quay lại vào chiến tranh thế giới lần thứ nhất, không khó để quân đồng minh nhận ra cần trang bị giáp dày hơn cho tank để chống lại đạn K hay lưu đạn cải tiến của Đức. Ngoài ra các lựu đạn AT này có đặc điểm chung là không gây nổ mà chỉ đâm xuyên giáp là chính, để làm hỏng động cơ hoặc gây sát thương cho tổ lái bên trong. Nếu chiếc xe tank có cấu trúc phức tạp với nhiều vách ngăn thì đã lựu đạn nổ cũng không hiệu quả cho lắm Do đó người Đức cần tới một vũ khí hiệu quả hơn, những súng chống tank đúng nghĩa đã ra đời sau đó. Điển hình là súng 3,7cm TAK sử dụng đạn pháo 37mm ra mắt vào năm 1918 nhưng do chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc ngày sau đó nên vai trò của TAK không mấy nổi bật, cộng với số lượng tank của quân đồng minh ở chiến tranh thế giới thứ nhất không nhiều, nên TAK không được chú ý. 

TAK 3,7cm của Đức


Chỉ đến khi chiến tranh thế giới thứ hai, tank trở thành nòng cốt của các cuộc tấn công. Những loại súng trên mới thực hiện được vai trò của mình.  Ví dụ như PAK 36 của Đức, Gun M3 của Mỹ, QF 2-pounder của Anh hay M1937 của Nga. Những loại súng chống tank có cỡ nòng dưới 50mm được dùng chính trong giai đoạn đầu chiến tranh thế giới 2, chơi tỏ ra khá hiệu quả với các thế hệ tank đầu tiên. Nhưng chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc chiến và các xe tank lẫn vũ khí chống tank AT cùng lột xác, khi các phe cũng triển khai những loại med tank. Các súng chống tank có cỡ nòng dưới 50mm bắt đầu thua kém và chỉ đủ “gãi ngứa”. Yêu cầu về những súng chống tank có sức công phá mạnh hơn lại tiếp tục được đề ra. Phía Đức lần lượt tung gia PAK 40 (75mm) rồi Flak 18-36 (88mm), phía Nga có M1943 (57mm) rồi M1944 (100mm). Người anh mang theo QF17-pounder (76,2mm) được sử dụng trong cuộc đổ bộ lên bờ biển Normandy trong năm 1944. Người Mỹ có một pháo có cỡ nòng tương tự là Gun M5 (76,2mm).