Mang trong mình kích thước nhỏ gọn so với hỏa lực cực mạnh, cùng tầm bắn xa tới hàng trăm km, loại vũ khí này có khả năng cơ động vượt trội so với mọi đối thủ. Chúng được tích hợp hàng loạt các công nghệ tinh vi hàng đầu thế, hội tụ đầy đủ những yếu tố của một loại vũ khí công thủ toàn diện. Đó chính là M142 HIMARS, là một trong là những loại vũ khí nổi lên trong cuộc xung đột Ukraina và Nga. Được coi là vũ khi có thể xoay đổi thế cục của cuộc chiến. Vậy nó thực sự có đủ khả năng như vậy hay chỉ là sự thổi phồng của truyền thông phương tây.



Được ra mắt từ những năm 1990 và đưa vào biên chế trong quân đội Hoa Kỳ từ năm 2010, M142 HIMARS là hệ thống pháo phản lực tầm trung đa năng, được sản xuất bởi tập đoàn quốc phòng Mỹ Lockheed Martin. Đây thực ra là phiên bản nâng cấp của hệ thống pháo phản lực tự hành bánh xích M270 theo hướng tập trung nâng cao tối đa khả năng cơ động và có thể phóng tất cả các loại đạn của pháo phản lực đa nòng. 

Nếu một dàn M270 nặng cỡ 26 tấn với 12 ống phóng thường gây khó khăn cho quân đội Mỹ trong các tình huống bắt buộc phải vận chuyển nhanh đến chiến trường bằng đường biển hoặc đường hàng không thì HIMARS với 6 ống phóng rocket, được đặt trên xe tải nhẹ, và tổng trọng lượng chỉ 16 tấn cho phép dễ dàng vận chuyển bằng máy bay vận tải chiến thuật C-130. Vì được thiết kế theo hướng tối ưu không gian, trọng lượng nên thoạt nhìn, toàn bộ hệ thống pháo phản lực đến từ mỹ với chiều dài 7 mét, chiều rộng 2,4 mét và cao 3,2 mét dù không khác gì mấy so với các đối thủ được phát triển tại Liên Xô và Nga như BM-27 Uragan, BM-300 Smerch ngoài kích thước có phần nhỏ nhắn hơn rất nhiều.


Tin liên quan

Mỹ hay Nga chưa phải là số 1 về pháo tự hành


Kể từ khi được biên chế chính thức trong quân đội Mỹ từ năm 2010, HIMARS nhờ khả năng cơ động cực cao, dễ vận chuyển với số lượng lớn đến chiến trường đã được xem là loại vũ khí đặc biệt hiệu quả, dễ dàng khắc chế kiểu chiến thuật “ địch tiến ta lùi, địch đứng yên ta quấy phá, địch rút lui, ta truy kích” rất được các lực lượng phiến quân ưa chuộng. Trước thời gian tham chiến tại Ukraine, HIMARS là một trong những loại vũ khí được các lực lượng NATO ưa chuộng ở các chiến trường Afghanistan.



Ngoài ra, HIMARS cũng được quân đội Thổ Nhĩ Kỳ, các lực lượng Syria thân Mỹ và quân đội chính phủ Iraq trong cuộc chiến chống lại tổ chức Nhà nước Hồi giáo IS ở Syria và Iraq. Rõ ràng, HIMARS thường mang theo hỏa lực từ 2 hộp được nạp sẵn 6 đạn rocket Lockheed Martin M30 / M31 GMLRS được tích hợp hệ thống dẫn đường có độ chính xác cao, cho tầm bắn từ 70-120 km là quá đủ để tấn công, làm tan rã đội hình của các phiến quân trước khi các lực lượng này có thể tập hợp được 1 lực lượng đủ lớn để quay lại phản công.

Ngoài ra, khả năng di chuyển với tốc độ tới 85km/h trên phạm vi tới 480km (tương đương với khoảng cách từ thành phố Thái Nguyên đến huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tình theo hướng QL1A) cũng cho phép các hệ thống HIMARS có thể tự di chuyển trên nhanh đến vị trí chiến đấu, giáng một loạt 6 đạn rocket chính xác vào các nhóm vũ trang hoặc căn cứ quân sự trong 20S rồi lập tức rút lui trước sự bất lực của quân địch.

Bên cạnh đó, tính năng khai hỏa khẩn cấp cho phép hệ thống tấn công quân địch trong khoảng cách chỉ từ 200m cũng khiến việc sử dụng kiểu chiến thuật tấn công áp sát đối với HIMARS trở nên khó khăn hơn rất nhiều so với các hệ thống pháo phản lực phóng loạt từ Nga như BM-300 Smerch có tầm bắn tối thiểu đến 20km.

Vì vậy, trong các trận chiến có sử dụng HIMARS tại Afghanistan và Trung Đông, các lực lượng quân sự NATO đã không mấy khó khăn để giành thế áp đảo trước các lực lượng phiến quân vốn chủ yếu được trang bị các loại vũ khí hạng nhẹ. Thậm chí, tại chiến trường Afghanistan, ngày 24 tháng 5 năm 2018, một đơn vị M142 đã hạ 3 tên lửa vào một tòa nhà ở Musa Qala trong 14 giây, giết chết 50 chiến binh Taliban đang ẩn náu bên trong, thể hiện độ chính xác đến đáng kinh ngạc của loại vũ khí này trong thực chiến. Ngay trong các trận chiến tại Kandahar(Afghanistan), kể cả thời điểm quân Taliban đã có thể tạo ra lợi thế nhờ các đòn tấn công từ mọi hướng về phía quân đội Mỹ.


Tin liên quan

Sát thủ diệt hạm của Mỹ khiến Trung Quốc chưa dám đánh Đài Loan


Tuy nhiên, trước uy lực của HIMARS, quân Taliban vẫn bị đánh bật và cách duy nhất để họ có thể chống lại loại vũ khí chết người này là rút sang Pakistan rồi quay trở lại, tiếp tục chiến đấu khi có cơ hội.

Đến tận tháng 8/2022, khi các nỗ lực của Mỹ tại Afghanistan về cơ bản đã thất bại, các hệ thống HIMARS dù không thể vớt vát được sự rệu rã của quân đội chính phủ Afghanistan cũng như sự mệt mỏi, chán nản của quân đội Mỹ nhưng vẫn kịp gây ấn tượng với thời gian hoạt động tới một triệu giờ và duy trì tỷ lệ sẵn sàng hoạt động trong khoảng 99%.

Thế nhưng, với cách tiến hành chiến tranh lãng phí đến mức chưa từng có trong lịch sử của mình, HIMARS cũng như các loại vũ khí được tích hợp công nghệ cao khác được Mỹ sử dụng tại Trung Đông không những không chứng minh được ưu thế tuyệt đối về độ chính xác, khả năng cơ động mà còn khiến nhiều ý kiến trái chiều về mức độ hiệu quả thực sự của chúng trong điều kiện chiến trường thực tế.

Thậm chí có ý kiến cực đoan hơn còn cho rằng vũ khí hiện đại của người Mỹ chỉ thực sự hiệu quả khi dùng để chống lại đối phương có tiềm lực yếu hơn đến vài chục lần và với chi phí đắt đỏ cùng những công nghệ thiếu thực dụng, những loại vũ khí này hiển nhiên không thể có chỗ đứng trong một cuộc chiến ngang cơ chứ chưa nói đến việc dùng để chiến đấu chống lại đối phương có thực lực mạnh hơn gấp nhiều lần.

 


Những quan điểm như vậy chỉ thực sự lắng xuống khi HIMARS có màn thể hiện hết sức ấn tượng tại Ukraine. Số là kể từ khi phát động chiến dịch quân sự tại Ukraine, quân đội Nga với lợi thế áp đảo về kinh nghiệm tác chiến lẫn vũ khí, trang thiết bị quân sự đã nhanh chóng giành thế áp đảo ngay trong những ngày đầu tiên khi đã thành công phá hủy số lượng lớn các kho vũ khí, nhà máy công nghiệp quốc phòng của Ukraine.

Tình thế lại càng khó khăn hơn cho phía Ukraine khi bị không quân Nga làm chủ bầu trời. Dựa vào sức mạnh của những chiến đấu cơ hiện đại như MiG-35, Su-25 kết hợp với các tên lửa đạn đạo Iskander-M, tên lửa hành trình Kalibr người Nga có thể tấn công chính xác vào bất kỳ mục tiêu nào nằm sâu trong lãnh thổ Ukraine.

Trong khi đó, vũ khí tầm xa đáng gờm nhất của quân đội Ukraine lại chỉ có dòng Tochka-U từ thời Liên Xô. Dù là loại tên lửa đạn đạo chiến thuật rất nguy hiểm với tầm bắn đạt tới Mach 5.3 và tầm bắn lên tới 120km nhưng từ những ngày đầu tiên bắt đầu cuộc chiến, quân đội Ukraine chỉ có khoảng 40 hệ thống tên lửa này, là quá ít để đương đầu với đội quân khổng lồ của người Nga. Hơn nữa, các hệ thống Tochka-U cũ có sai số có thể lên tới vài trăm mét cũng tỏ ra thích hợp với lối tấn công dồn dập nhằm hủy diệt mục tiêu với số lượng lớn hơn là tấn công các mục tiêu nhỏ như đường ray xe lửa, tàu bè, cầu, cảng.


Tin liên quan

Chiến tranh Ukraina mở ra kỷ nguyên thực sự về chiến tranh hiện đại UAV

 

Trong khi đó, các mục tiêu thực sự của quân đội Ukraine lại  là những binh lính, trang thiết bị của Nga đang đóng quân trên chính lãnh thổ của họ. Điều đó cũng có nghĩa là việc sử dụng các hệ thống Tochka-u vào tấn công quân đội Nga sẽ mang lại rất nhiều rủi ro về các tình huống tên lửa bắn không trúng mục tiêu có giá trị cao hoặc bắn vào các nhà máy, cơ sở hạ tầng mà quân Ukraine có khả năng tái chiếm, làm lãng phí các nguồn lực có thể kiểm soát được.

 Tình thế đó lại càng khiến quân đội Ukraine phải sử dụng rất hạn chế loại tên lửa đạn đạo này và bố trí dàn trải các hệ thống phòng thủ khiến quân Nga có thêm lợi thế. Diễn biến chiến trường thực sự chỉ có chút chuyển biến sau khi quân đội Ukraine nhận được các hệ thống HIMARS đầu tiên vào tháng 7/2022.

Ban đầu, quân đội Ukraine thường chỉ tận dụng khả năng di chuyển nhanh chóng trên phạm vi dài của HIMARS để triển khai hệ thống đến một vị trí được tính toán trước vào ban đêm, sau đó tấn công vào các mục tiêu của Nga nằm trong tầm 80km rồi rút lui nhanh nhất có thể để tránh bị đối phương phản pháo. Nhưng về sau, người Ukraine đã có thể khai thác triệt để hơn khả năng cơ động của loại vũ khí này bằng chiến thuật tấn công liên tục cả sáng lẫn tối, từ nhiều hướng, kết hợp với phương pháp di chuyển luân phiên đến các vị trí bắn khác nhau tùy thuộc vào tình hình chiến trường khiến hoạt động trinh sát, phản kích của quân Nga gặp rất nhiều khó khăn.

Nhờ chiến thuật hết sức thông minh này cùng độ chính xác đáng kinh ngạc của các loạt đạn rocket được phóng từ HIMAR, quân đội Ukraine đã thành công phá hủy tới hơn 100 mục tiêu quân sự nằm sâu trong vùng lãnh thổ bị Nga chiếm đóng như Kherson, Berdyansk,.. trong đó có không ít các mục tiêu quan trọng của Nga như kho vũ khí, kho xăng dầu, tuyến tiếp tế hậu cần như cầu, đường sắt.



Đáng chú ý nhất là chế độ kích nổ trên không của loại đạn rocket M31, dựa vào quán tính và năng lượng của vụ nổ để phóng các mảnh đạn xuống mục tiêu, giúp tiêu diệt số lượng lớn sinh lực địch hoặc các phương tiện cơ giới, kể cả chúng có nằm sau vật cản. Còn chế độ chạm nổ trực tiếp thông thường và nổ chậm lại tỏ ra thích hợp hơn đối với các mục tiêu là sở chỉ huy, các cây cầu và kho chứa hàng của đối phương

Bất chấp thực tế là con số 20 hệ thống HIMARS vẫn là quá xa vời để tạo ra các trận địa pháo khổng lồ, dọn đường cho các cuộc phản công quy mô lớn như mong muốn của giời chức Ukraine nhưng chí ít cho đến thời điểm hiện tại, HIMARS vẫn là sự lựa chọn không thể hợp lý hơn đối với tình thế của quân đội Ukraine khi vừa có thể gây thiệt hại lên quân thù trong khi vẫn đảm bảo sử dụng tiết kiệm nguồn đạn dược cần thiết, nhất là khi hình thái chiến tranh đang chuyển dần sang giai đoạn đánh tiêu hao tại các tỉnh miền Đông, miền Nam và Nga vẫn có thể phát động cuộc tấn công ồ ạt tiếp theo bất cứ lúc nào.


Tuy nhiên, với mức giá lên tới hơn 5 triệu USD cho riêng 1 khung gầm và bệ phóng bánh lốp, Himars đối với người Mỹ hiển nhiên không chỉ đơn giản là loại pháo phản lực phóng loạt thông thường được tạo ra với mục đích duy nhất là chống lại bộ binh.

 Theo đó, chỉ cần một vài thao tác đơn giản, HIMARS sẽ nhanh chóng biến đổi từ hệ thống pháo phản lực phóng loạt trở thành một khung gầm xe phóng cho 1 tên lửa đạn đạo chiến thuật ATACMS. Dựa vào tốc độ di chuyển cao của hệ thống HIMARS cùng tính năng tự dẫn, kết hợp giữa quán tính và định vị mục tiêu GPS, loại tên lửa này có thể nhanh chóng được cơ động tới các vị trí thích hợp, tấn công mục tiêu trong khoảng cách tới 300km, quá đủ để Phần Lan và 3 nước Baltic có thể tấn công các thành phố quan trọng của Nga như St Petersburg nếu một cuộc chiến tổng lực giữa Nga và NATO nổ ra và loại tên lửa có thể mang đầu đạn hạt nhân này được Mỹ chuyển giao cho các quốc gia trên.

Điều đó cũng có nghĩa là các hệ thống HIMARS từ một hệ thống pháo phản lực thông thường lại trở thành một phần trong một hệ thống vũ khí có khả năng tấn công chiến lược. Vì vậy, dù đã giao cho Ukraine tới 20 hệ thống HIMARS nhưng giới chức Mỹ vẫn tỏ ra lưỡng lự đối với đề nghị từ phía Ukraine về việc chuyển giao cho nước này dòng tên lửa ATACMS.



Nguyên nhân chủ yếu được cho là người Mỹ vẫn lo ngại tình huống người Ukraine sau khi có tên lửa ATACMS sẽ thay vì sử dụng các tổ hợp HIMARS tấn công vào các mục tiêu quân sự nhỏ lẻ của Nga trên lãnh thổ của mình thì lại quay sang tấn công vào các vùng lãnh thổ thuộc Nga. Nếu trường hợp đó xảy ra, sẽ là thảm họa cho không chỉ Nga và NATO mà có thể là toàn bộ nhân loại khi xung đột tại Ukraine hoàn toàn có khả năng leo thang và chuyển thành một cuộc đại chiến thế giới thứ 3.

Chưa dừng lại ở đó, trong tương lai, loại tên lửa chiến thuật PrSM với tầm bắn từ 60-500km đang được Lockheed Martin phát triển cũng sẽ được lắp đặt trên khung gầm HIMARS với 2 tên lửa trên mỗi bệ phóng, thay thế toàn bộ ATACMS trong các nhiệm vụ của Thủy quân lục chiến Mỹ.

Dựa vào khả năng vận chuyển bằng đủ loại phương tiện, từ tàu vận tải hạng nhẹ, hạng trung đến máy bay C-130, thủy quân lục chiến Mỹ có thể đem những hệ thống HIMARS cùng dòng tên lửa đạn đạo này đến bất kỳ chiến trường nào, giáng đòn tấn công ào ạt, chính xác lên bất kỳ mục tiêu nào trong phạm vi tới 500km, nâng tầm sức mạnh của thủy quân lục chiến Mỹ lên một nấc thang mới.

Nhưng rốt cuộc, HIMARS cũng không phải là loại vũ khí thần thánh có thể xoay chuyển cục diện chiến trường. Nó đơn thuần cũng chỉ là một hệ thống pháo phản lực và có thể chuyển thành bệ phóng cho các tên lửa đạn đạo trong trường hợp cần thiết.



Trong vai trò là một hệ thống pháo phản lực phóng loạt, nó cũng không lấy gì làm vượt trội so với các dòng pháo phản lực như Tornado-G, BM-30 Smerch đến từ Nga mà chỉ gọn nhẹ hơn, chính xác hơn, dễ cơ động hơn. Sở dĩ có sự khác biệt này là do các hệ thống pháo phản lực phóng loạt thế hệ mới đến từ Nga vốn được tạo ra với tốc độ bắn nhanh, hỏa lực cực mạnh, giá rẻ hơn nhưng thời gian triển khai và thu hồi chậm hơn, rất phù hợp để thiết lập các trận địa pháo binh khổng lồ, giáng đòn hủy diệt lên bất kỳ vùng đất nào là mục tiêu của chúng.

Trong khi đó, HIMARS là loại pháo phản lực nhỏ gọn, có thể dễ dàng vận chuyển đến các chiến trường, là vũ khí bổ sung hỏa lực mạnh hết sức cơ động của Mỹ và các quốc gia NATO trong các hoạt động yểm trợ, truy kích các nhóm phiến quân phân tán hoặc các căn cứ quân sự.


Tại chiến trường Ukraine, quân đội nước này với chiến thuật hết sức thông minh, đã tận dụng được khả năng cơ động, linh hoạt của HIMARS như một vũ khí tác chiến phi đối xứng để tập kích các mục tiêu của Nga. Nhưng chừng đó vẫn là quá nhỏ so với những thiệt hại Nga đã gây ra đối với Ukraine ngay từ đầu cuộc chiến. Như những gì đã xảy ra ở Afghanistan, người Ukraine chắc chắn sẽ không thể chiến thắng nếu chỉ dựa vào HIMARS cũng như bất kỳ loại vũ khí hạng nặng nào khác để đánh bại hoàn toàn quân đội Nga nếu họ không có những chỉ huy quân sự tài năng, những binh lính dũng cảm cùng sự ủng hộ hết mình của nhân dân.