Trong các tác phẩm về đề tài trộm mộ nổi tiếng như Ma Thổi Đèn, Đạo Mộ Bút Ký...một dụng cụ rất hay được các nhân vật như Hồ Bát Nhất, Vương Khải Tuyền, Ngô Tà nhắc đến chính là Xẻng Lạc Dương. Thậm chí đây được coi như một bảo khí của những kẻ đạo mộ. Vậy thực hư về loại xẻng này là như thế nào, nó có thật hay không và khác với loại xẻng thông thường mà chúng ta vẫn biết như thế nào.


Ngày nay, mặc dù có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ khoa học hiện đại, nhưng những nhà khảo cổ vẫn đối mặt với nhiều khó khăn khi phải theo dõi những di tích khảo cổ. Đặt ra câu hỏi: làm thế nào những kẻ mộ tặc cổ đại có thể xác định chính xác vị trí các khu lăng mộ?

Trước thời kỳ nhà Minh (1368 - 1644), những tên trộm mộ thiếu kinh nghiệm và lựa chọn về công cụ "nghề nghiệp" khá hạn chế. Họ chỉ chọn những khu mộ có dấu hiệu nhận biết rõ trên bề mặt như tấm bia mộ hay màu sắc đất chôn.

Những tên này thường sử dụng dùi sắt dài để thăm dò lớp đất. Khi dùi được nâng lên, nếu đất trên đầu dùi mang mùi kim loại, đó là dấu hiệu dưới đất có thể chứa những kho báu.

Theo quyển sách cổ "Quảng Chí Dịch" của Vương Sĩ Tính dưới thời nhà Minh, "Ở vùng Lạc Dương, người chết được chôn cách mặt đất 4-5 trượng, mộ tặc vẫn đánh hơi được mùi vàng, bạc, đồng, sắt để mà đào."


Bộ tác phẩm Ma Thổi Đèn của Thiên Hạ Bá Xướng


Về sau, những tên trộm mộ đã sáng tạo ra một công cụ hiệu quả hơn, đó là xẻng Lạc Dương. Công cụ này được một tên mộ tặc tại Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc phát minh vào đầu thế kỷ 20 và đã được cải tiến qua các thế hệ. Xẻng có hình chữ U (không phẳng như xẻng hiện đại), với chiều rộng hẹp giúp tập trung đào sâu vào một điểm cụ thể. Mỗi lần xúc xuống đất, lưỡi xẻng có thể đạt độ sâu 30 - 40cm.

Xẻng Lạc Dương vừa có thể đào sâu, vừa có chức năng lấy mẫu đất để phân tích nên tới năm 1928, các nhà khảo cổ đã lần đầu tận dụng công cụ này cho công tác khai quật lăng mộ.

Đất, trong hệ thống phân loại, được phân thành ba loại cơ bản: đất chín, đất sống (hay còn được biết đến là đất hoa), và đất chết.

Trong đó, đất chết là loại đất thô tự nhiên chưa từng trải qua sự xáo trộn, vì vậy nó có cấu trúc chắc chắn và màu sắc đồng đều. Đất sống là đất mà con người đã đào trộn, tạo nên cấu trúc lỏng lẻo hơn. Còn đất chín là loại đất đã được hấp chín hoặc xào qua lửa để loại bỏ các chất dại mọc.


Xẻng Lạc Dương với hình dạng khác lạ so với xẻng thông thường của nhà nông


Đất chín thường khá khó thấm hút nước, và nhanh chóng khô sau khi tiếp xúc với nắng. Do đó, sau mỗi cơn mưa, mộ tặc thường kiểm tra độ ẩm của vùng đất xung quanh, nơi khô ráo nhanh nhất có thể là vị trí của mộ cổ. Những khu vực có lăng tẩm thường ít cỏ dại, cây cỏ cũng khô héo hơn.

Lăng Tần Công số 1, khai quật vào năm 1975, cũng được phát hiện thông qua phương pháp này. Trước đó, vị trí của lăng này ban đầu là khu đất nông nghiệp, nhưng mỗi vụ thu hoạch đều không đem lại nhiều thành quả. Ngay cả khi dân làng quyết định bỏ hoang khu đất, cỏ dại cũng không mọc nhiều.

Một nhà khảo cổ học sau này nghe đến câu chuyện đặc biệt này từ dân làng và quyết định khám phá, kết quả là họ phát hiện ra một lăng mộ khổng lồ ngủ sâu dưới lòng đất.

Bên cạnh những kỹ thuật trên, việc phát hiện mùn cưa, than hoặc chu sa khi đào đất cũng là dấu hiệu rõ ràng của một địa điểm mai táng.