Nhà văn Henryk Sienkiewicz mô tả về “kỵ binh có cánh” Hussars khiến đối thủ phải kinh hoàng và là niềm tự hào bất tận của người Ba Lan: “Những tiếng va chạm khủng khiếp vang lên, ngỡ như núi đổ, kế đến là những tiếng vang của kim loại như thể hàng nghìn người thợ rèn đang cùng đập trên đe. Chúng tôi nhìn lại một lần nữa – lạy Chúa tôi – những người lính cứ lần lượt ngã xuống và bị nghiền nát như thể cánh đồng lúa mạch bị cơn bão tàn phá vậy, và rồi họ… những kỵ binh bay Hussars đã bỏ đi xa cùng ngọn giáo trên vai”.



 Được mệnh danh là gieo rắc kinh hoàng trên khắp chiến trường châu Âu đội kị binh có cánh xuất hiện từ thế kỉ 16 đến thế kỉ 18. Ngay cả đối thủ hơn họ nhiều lần cũng không hề hấn gì đối với đội kị binh này.

Họ được trang bị trên người những vũ khí tối tân nhất, ngay cả ngựa chiến của họ cũng được trang bị giáp sắt. Không chỉ sử dụng giáo dài mà họ còn sử dụng cả kiếm và súng ngắn.

Những đôi cánh của kị binh thường được xem nhưu vật trang trí cho đẹp nhưng thực tế theo như những gì mà chuyên gia nghiên cứu đôi cánh này có tác dụng làm đối thủ hoảng sợ vì rung theo nhịp ngựa bay.


Tin liên quan

Thế lực không ngang hàng là cụm từ để chỉ trận chiến Thermopylae chỉ với 300 quân Sparta mà chiến đấu với 1 vạn quân Ba Tư


Ngay cả đến những trận đánh của kị binh này cũng rất đặc biệt bởi họ thường di chuyển rất chậm rồi nhanh dần lên cho đến khi đạt cực đại là chạm mặt đối thủ. Cách đánh này làm cho đối thủ tính sai thời điểm cận chiến của hai bên và dẫn đến việc mất tập trung.

Rất nhiều trận đánh ở châu Âu vào thế kỷ 16, 17 có sự tham gia của đội kỵ binh hùng mạnh này đây cũng được xem như thời điểm vàng của họ bởi trên tất cả chiến trường đội kị binh cũng giành được chiến thắng, như: Lubiszew (1577), Byczyna (1588), Kokenhausen (1601), Kircholm (1605), Kluszyn (1610), Chocim (1621), Martynów (1624), Trzciana (1629), Ochmatów (1644), Beresteczko (1651), Polonka (1660), Cudnów (1660), Chocim (1673), Lwów (1675), Vienna (1683), và Párkány (1683).



Vào thời điểm diễn ra trận chiến Kircholm vào năm 1605, quân Thụy Điển đã sử dụng đến 11.000 quân trang bị súng trường một lực lượng vô cùng lớn so với 1.900 kị binh có cánh của Ba Lan. Tưởng chừng sự chênh lệch lực lượng này có thể dẫn đến cái thua của đội quân Ba Lan nhưng không hề mà ngược lại đội kị binh có cánh bị thiệt hại chưa đến 100 người.



Một trận đánh khác nữa là giữa liên quân  Áo, Đức, Ba Lan và đế chế Ottoman. Với lòng tham không đáy của mình đế chế Ottoman dù cho đã đánh bại đế chế La Mã và thống trị Châu Âu, vào năm 1683, lãnh thổ của đế chế này đã trải dài toàn bộ đông-nam châu Âu bờ bắc Địa Trung Hải, cả bờ biển bắc châu Phi cho đến Maroc phía nam Địa Trung Hải, lãnh thổ rộng đến 11,5 triệu km2, đến năm 1683, lòng tham ấy laị nổi dậy với tham vọng làm chủ Trung Âu. Sử dụng đến 15 vạn quân bao vây thành Vienna khiến cho 15.000 quân Áo phải nỗ lực phòng thủ trong thành suốt một tháng.



Để giải vây cho thành Vienna, liên quân Áo, Đức, Ba Lan đã sử dụng 8 vạn quân dưới sự chỉ huy của Ba Lan đội “kị binh có cánh” trở thành lực lượng đặc biệt giúp đánh bại quân quân định, và thành Vienna được giải thoát. Từ đó tạo nên khí thế hừng mạnh cho đội quân đế chiến thắng những trận tiếp theo đó cũng như là một cú tát vào tham vọng của đế quốc Ottoman.