Vũ khí quan trọng của quân sự trong công cuộc nghiên cứu đại dương chính là tàu ngầm. Nó có khả năng lặn sâu mà kể cả khi phóng ngư lôi dưới nước thì nước biển cũng không thể tràn vào khoang?



Cơ chế hoạt động của tàu ngầm như thế nào?

Cấu tạo ở thân tàu ngầm có hai lớp vỏ trong và ngoài. Hai lớp vỏ này sẽ tạo nên nhiều khoang chứa nước. Mỗi khoang đều có nhiệm vụ riêng của mình là hút và xả nước.

Hệ thống hút nước sẽ được sử dụng nếu tàu ngầm muốn lặn xuống. Khi đó, tàu ngầm chỉ cẩn mở van hút nước để nước biển ngập vào các khoang. Tàu sẽ tăng trọng lượng đến mức quá sức nâng thì sẽ tự động lặn xuống.

Hệ thống xả nước sẽ được kích hoạt khi tàu ngầm đang ở dưới nước sâu muốn nổi lên. Nó sẽ sử dụng không khí để nén với áp suất lớn. Nước sẽ nhờ lực đẩy để ra ngoài, trọng lượng tàu nhẹ đo. Lúc đó, sức nâng lại lớn hơn trọng lực đẩy tàu tự nổi.

Khi tàu ở khoảng giữa mặt biển và đáy biển, tàu ngầm muốn chuyển đổi sang trang thái chạy thì có thể mở hoặc xả nước ở một vài khoang. Trọng lượng tàu sẽ thay đổi để có thể hoạt động dưới nước. Đuôi tàu hướng xuống dưới, bánh lái tàu ở đầu tàu hướng lên trên thì đây là trạng thái tàu nổi. Ngược lại sẽ là trạng thái tàu di chuyển ở một độ sâu nhất định ở dưới nước.

Tại sao tàu ngầm luôn phải thay đổi trạng thái nổi – chìm?

Tàu ngầm có hai loại: một chạy bằng diesel – điện và một loại chạy bằng năng lượng hạt nhân.

Tàu ngầm diesel sẽ hoạt động dựa vào diesel điện. Tàu ngầm hạt nhân sẽ hoạt động bằng năng lượng hạt nhân.

Hai loại tàu này đều phải nổi lên theo những cách khác nhau nhưng phải đúng định kỳ.

Đối với tàu ngầm diesel, quá trình đốt trong sẽ giúp động cơ diesel tạo ra năng lượng. Oxi là điều cần thiết đối với quá trình này nên buộc chúng phải nổi lên để đảm bảo tàu được hoạt động liên tục.

Tần suất ngoi lên của tàu ngầm khoảng vài ngày 1 lần (hoặc thường xuyên hơn). Quá trình này còn giúp thải bớt khí gas sinh ra trên tàu được thoát ra. Một “ống thở” gắn trên tàu sẽ hỗ trợ tàu trong việc lấy được oxy từ trên bề mặt nước để tàu vẫn hoạt động dưới nước. Các động cơ diesel của nó hoạt động khi tàu nổi lên sẽ sản sinh ra năng lượng và  sạc lại các viên pin để tàu tiếp tục hoạt động.

Đối với tàu ngầm hạt nhân, chúng sẽ có cơ chế hoạt động khác. Nó sản sinh năng lượng và hoạt động dựa trên các lò phản ứng hạt nhân. Năng lượng sinh ra để phục vụ cho các thiết bị điện trên tàu, các thiết bị điện trên tàu hoạt động. Nó sẽ hoạt động thường xuyên, có thể hoạt động một tháng mà không cần phải nổi.


Tin liên quan

Quân đội Nga tấn công thành trì Ugledar bằng pháo nhiệt áp    


Trên thực tế, các lò phản ứng hạt nhân trên tàu ngầm có thể hỗ trợ tàu hoạt động trong vài thập kỷ. Nhưng việc nổi lên mặt nước để phục vụ việc truyển tải thông tin về căn cứ, và để nhận lệnh mới, hoặc nhiều thông tin quan trọng khác. Vì khi tàu ở dưới nước các tín hiệu sẽ khó phát huy tác dụng.

Vì sao nước lại không thể tràn vào trong khi tàu ngầm bắn ngư lôi?

Hai nắp của ống ngư lôi được thiết kế ở phía trước và phía sau. Chúng hoạt động đồng thời khi đóng nhưng lại khác nhau khi mở. Ống phóng mở nắp trước thì nắp sau không thể mở đồng thời được.

Nước biển có thể tràn vào ống phóng khi ngư lôi được phóng nhưng nước sẽ không thể tiến sâu vào bên trong bởi nắp sau đã đóng. Nước mà bị lọt vào trong sẽ đi vào một bể chứa để cung ứng cho khối lượng đã mất đi vì phóng ngư lôi. Trọng lượng tàu lúc này vẫn tiếp tục duy trì ổn định. Nước rút hết thì ngư lôi khác tiếp tục được nạp vào.