Lục quân Mỹ sở hữu xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT). Đây chính là xe tăng M1-A2 Abrams – được xuất phát từ tên của cựu Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ Creigton Abrams (1914-1974).

Ba Lan trở thành quốc gia sở hữu một trong những lực lượng xe tăng mạnh nhất châu Âu khi vừa ký hợp đồng mua 250 xe tăng M1-A2 Abrams để thành lập 4 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn cơ giới 18 và Lữ đoàn thiết giáp 19 đóng tại Lublin. 



Hãng General Dynamics tiến hành cải tiến M1-A2 Abrams từ xe tăng M1-A1. M1-A2 Abrams có   kíp lái 4 người, trọng lượng chiến đấu 67 tấn, dài 9,76m, rộng 3,65m, cao 2,88m, vỏ thép phía trước dày hơn M1-A1. Động cơ AGT công suất 1.500 mã lực đa nhiên liệu kiểu turbine khí của xe sẽ tốn nhiều nhiên liệu hơn và toả nhiều nhiệt hơn so với động cơ piston. Nhờ vào nó mà chỉ sau 7 giây khởi động thì có thể đạt tốc độ 35 km/h, tốc độ di chuyển cao nhất 72,421 km/h, tầm hoạt động 498km; có khả năng vượt được hào rộng 2,4m, lội nước 1,22m khi không được chuẩn bị và 1,98m khi có chuẩn bị. 

M1-A2 có thiết kế dáng thấp, mũi nhọn, thành xe có nhiều góc cạnh. Do đó, xe có độ dốc riêng khiến các loại đạn bắn vào xe tăng sẽ bị giảm hiệu lực do viên đạn bị trượt theo. Uranium nghèo (Depleted Uranium - DU) không có tính phóng xạ được sử dụng cho vỏ bọc xe. Nó có tác dụng ngăn chặn được các loại đạn pháo cỡ 125mm, các loại vũ khí chống tăng thông thường như B-40, B-41 (RPG-7). 

Các thành viên trên xe và sở chỉ huy biết nhiều thông tin chính xác nhờ vào hệ thống chỉ huy được tự động hoá, các ăng-ten được kết nối với hệ thống định vị toàn cầu (GPS). Những thông tin bao gồm vị trí mà phương tiện đang tác chiến, có thiết bị nhận biết địch/ta, hệ thống báo động sớm. Nó có thể thực hiện nhiệm vụ kể cả  ở khoảng cách 3.000m ban đêm và 1.200m trong điều kiện sương mù. M1-A2 có thể bắn hạ mục tiêu ở khoảng cách 1.850m bằng một viên đạn khi đang hành tiến với tốc độ 40km/h nhờ vào hệ thống điều khiển hỏa lực hiện đại bằng laser.

1 pháo 120mm M256 (đầu đạn pháo được làm từ nguyên liệu Uranium nghèo), súng máy phòng không Browning 12,7mm M250, súng máy đồng trục 7,62mm M240, súng phóng đạn tạo khói… đều dành cho dòng xe tăng này.

Khả năng thực chiến

Xe tăng M1 Abrams đưa vào sử dụng trong lục quân Mỹ năm 1980 cho đến chiến tranh vùng Vịnh năm 1991. Lúc này, nó bắt đầu thể hiện khả năng thực chiến khi từng tiêu diệt 27 xe tăng, 18 bọc thép bộ binh và 30 xe tải của Iraq.

Hàng trăm xe tăng Iraq trong hai đợt phản kích đều bị tiêu diệt bởi cả loại xe tăng M1-A1 và M1-A2 trong cuộc chiến tranh Iraq năm 2003. Nó tiến hành  các đợt đột kích vào các mục tiêu trong thành phố, đặc biệt là tại Baghdad.

Tuy nhiên, nhiều người đánh giá động cơ, bộ phận truyền lực của xe tăng M1-A2 không phù hợp với tác chiến trong điều kiện thời tiết, địa hình sa mạc. Nếu như ở điều kiện như vậy, thiết bị quan sát và ngắm bắn hồng ngoại trên xe tăng sẽ bị hỏng. Ngắm bắn hồng ngoại trên xe khi cơ động trong đội hình hành quân chỉ đạt dưới 300m, khi dừng lại là từ 700 - 800m, trong đêm lạnh từ 1.000 - 1.500m; các cuộc tiến công ban đêm đều không thực hiện được.


Tin liên quan

Merkava - xe tăng bọc giáp đầu tiên thế giới được trang bị hệ thống hiện đại APS


Các chuyên gia cho rằng, hệ thống tên lửa chống tăng vác vai Konkurs-M, Metix-M, Krasnopol, Fagot; tên lửa chống tăng Sheksna (trang bị trên xe tăng T-72) và Refleks (9M119M trang bị trên xe tăng T-80)... cũng có khả năng đánh bại được Abrams.

Không coi phiên bản nâng cấp SEPv3 của xe tăng Abrams là đối thủ của tăng T-14 Armata, hơn thế nữa tăng T-72B3M cải tiến mới nhất của Nga. Các chuyên gia cũng nghi ngờ những yếu tố - tính năng kỹ thuật, khả năng tích hợp vào hệ thống vũ khí và khả năng được bảo vệ bởi hệ thống phòng không đa tầng sẽ làm giảm hoạt động hiệu quả của xe tăng Abrams trong quân đội Ba Lan. Thậm chí, do trọng lượng quá nặng cũng ảnh hưởng tới việc hành quân  ở địa hình Đông Ba Lan với hệ thống sông và cầu chằng chịt.