Văn Thành Công chúa và Công chúa Xích Tôn bắt tay cùng xây dựng những ngôi chùa trấn ma sau khi ngôi chùa đang xây dựng liên tục bị ác quỷ phá hoại vào ban đêm. Việc xây dựng những ngôi chùa trấn ma cải tạo phong thủy liệu có mang tới tín hiệu tốt cho vùng đất Tây Tạng?



Xây dựng những ngôi chùa trấn ma

 Việc đầu tiên mà Tùng Tán Cán Bố và hai vị vương phi làm chính là đến Thánh địa nước Thổ Phồn là Bạt Bang Khách cùng tu tập Phật Pháp. Họ thấy được điềm báo tốt nên bắt tay thực hiện ngay việc xây dựng.



12 ngôi chùa trấn ma được đội xây dựng lần lượt xây để trói được tứ chi với 3 vòng từ trong ra ngoài. Vòng 1 ở trên vai trái ma nữ và chân trái ma nữ có chùa Xương Châu và chùa Trọng Ba Giang. Chân và vai còn lại được xây chùa Cát Tắc và chùa Tàng Chương. Đến vòng 2 tiếp tục cho xây 4 ngôi chùa được trải ở khuỷu tay trái, khuỷu tay phải, đầu gối trái, đầu gối phải của ma nữ. Vòng cuối cùng được đặt tại lòng bàn tay trái, lòng bàn chân trái, lòng bàn tay phải và lòng bàn chân phải của ma nữ.

Văn Thành Công chúa nói dù có trói được tứ chi nhưng nếu nơi này không trấn vững thì các nơi khác trở nên vô ích. Đó chính là hồ Ngọa Đường ở dưới núi Mã Bố Nhật. Nơi được coi là trái tim của ma nữ và là nơi ắt phải được trấn đầu tiên. Nếu  mạch tim ma nữ còn động thì bất kỳ ngôi chùa nào cũng sẽ không được xây dựng thành công.

Vì vậy nên những con sơn dương được nhận nhiệm vụ vận chuyển  đất đá đến lấp bằng hồ Ngọa Đường để xây chùa Đại Chiêu ở trên đó. Trái tim của ma nữ được đặt bởi quần thể kiến trúc nội viện 3 tầng trong chùa. Lhasa, cái tên vốn là Rasa, “Ra” trong tiếng Tạng có nghĩa là sơn dương, còn “Sa” nghĩa là đất. Nó ra đời từ công trình xây dựng chùa với ý nghĩa là mảnh đất do sơn dương xây dựng nên.


Tin liên quan

Sự tích về ngôi chùa trấn ma - ngôi chùa thay đổi phong thủy vùng đất Tây Tạng ( Phần 1)


Trước đó Thần Biến là tên gốc của chùa Đại Chiêu. “Chiêu” trong tiếng Tạng có nghĩa là Phi tử. Bức tượng Phật Đàlúc được 8 tuổi được làm toàn bộ bằng vàng do đích thân Công chúa Xích Tôn đem đến chùa Đại Chiêu thờ cúng. Chùa Tiểu Chiêu có thờ cúng bức tượng Phật Đà lúc 12 tuổi, toàn thân bằng vàng được Văn Thành Công chúa đem từ triều Đường đến. Kể từ đó, phong thủy Tây Tạng đã có chuyến biến tốt. Những câu chuyện này đều được lưu truyền từ Phật giáo Tây Tạng nhưng vẫn có vài nghi vấn được đặt ra khi chưa biết phỏng thủy Tây Tạng xấu như thế nào hay xấu với ai?

 

Góc nhìn khác về Thổ Phồn

Ngôi chùa trấn ma được xây dựng nhằm mục đích thay đổi phong thủy vì khởi đầu của nó cũng giống với các vương triều Trung Nguyên. Cứ sau khi một triều đại kết thúc việc đào đứt long mạch của triều đại đó là cần thiết. Đó còn có nghĩa là cắt đứt khí mạch của triều đại trước nhằm mục đích người ở vùng đất bị chinh phục không thể tạo phản. Được coi là lí do cơ bản để hình thành 12 ngôi chùa trấn ma.

Nước Thổ Phồn nằm ở vùng Nhã Long phía đông nam cao nguyên Thanh Tạng ngày nay đã vùng dậy nhanh chóng và mạnh mẽ ở thế kỷ thứ 6, 7. Thời kì cực thịnh chính là thế kỉ thứ 8 khi mở rộng đến phía nam rặng núi Thiên Sơn. Thổ Phồn khi đó là cường quốc chỉ đứng sau Đại Đường sau khi các  vùng đất Tây Bắc tỉnh Vân Nam, Tây Tạng, Thanh Hải và Khang Ba Tứ Xuyên, Cam Túc, và bồn địa Tháp Lý Mộc Tân Cương đều nhập vào. 



Bất ngờ trở thành cường quốc khiến quốc gia này sinh ra kiêu ngạo. Thể hiện ở sự khuếch trương của Thổ Phồn ở cả Bắc và Nam. Còn có cả sự chinh phục văn hóa đối với người bản địa của các địa phương, quá trình đồng hóa tư tưởng và phong tục và quá trình mở rộng lãnh thổ. Những điều đó đối với một quốc gia mới nổi là vô cùng khó khăn. Làm sao để cai trị một đất nước vững vàng phát triển khiến bách tính bình ổn, tâm phục khẩu phục? Đây là vấn đề sẽ khiến các vị quân vương Thổ Phồn phải đâu đầu. Nếu muốn tiếp tục mở rộng lãnh thổ thì cần phải có chiến lược. Bởi vì khi những mảnh đất rộng lớn đó có thể là nguồn cơn của việc tạo phản. 

Phật giáo là nền văn hóa đáng tin cậy nhất mà các quân vương Thổ Phồn dựa vào đó để mở rộng lãnh thổ. Vì vùng đất của Thổ Phồn gần với Nepal và Ấn Độ, hướng tiến quân là Tây Tạng và Thanh Hải ở phía Bắc nên mới có câu chuyện như vậy. Qua đây thấy rằng, phong thủy Tây Tạng chỉ xấu với Thổ Phồn - kẻ chinh phục mới chứ không hề xấu đối với người dân bản địa sinh sống trên mảnh đất đó. 

Văn hóa tính linh của Tây Tạng

Một vùng đất không tồn tại tôn giáo nà trong thời gian dài chính là khu Tự trị Tây Tạng ngày nay, theo cách gọi truyền thống là Vệ Tạng. Chỉ có thầy mo, người sẽ  chữa bệnh đuổi tà cho mọi người chính là người được cộng đồng tôn kính. Đây có vẻ khá giống với phong tục của người Maya và người Aztec châu Mỹ. 

Một vị tên là Tân Nhiêu Mễ Ốc (Shenrab Miwo) người sáng lập ra Bôn giáo đã xây dựng lên văn hóa Tượng Hùng. Được kết hợp Pháp môn tu hành cửu thừa để tạo ra nền văn hóa vừa phù hợp với phong tục bản địa, để mọi người dễ tiếp nhận, lại vừa sáng lập ra một tôn giáo có hệ thống. Cũng từ đó mà Bôn giáo Ung Trọng ( tên gọi sau này) được thăng cấp đầu tiên của văn minh gốc của cao nguyên Tây Tạng.



Sau này thứ thực sự thịnh hành là Tát mãn vì luôn gắn liền nhất với cuộc sống người dân, có tên là Hắc Bôn. Đó chính là các thầy thuốc, thầy mo, thầy bói, thầy ảo thuật của Tây Tạng. Bôn giáo cũng là tín ngưỡng chính của khu vực này. 

Ở quốc quân đời thứ 33 của vương triều Nhã Lỗ Thổ Phồn thì Phật giáo dù được truyền vào Tây Tạng nhưng lại không thể sánh được với Bôn giáo về thực lực. Phải đến khi hai vị vương phi của  Tùng Tán Cán Bố đến thì Phật giáo mới chính thức được giới thiệu đến xã hội thượng lưu của Thổ Phồn. Dù vậy cũng mất nhiều thời gian nhưng chưa chiếm đến địa vị chủ đạo. 

Tùng Tán Cán Bố trở thành quốc quân đời thứ 33 của vương triều Nhã Lỗ Thổ Phồn nhưng thái độ thì khó ai đoán được. Có thể ngày nay nhiều người vẫn ngợi danh công lao khi ông đã phát triển Phật giáo, lại sùng tín Phật Pháp. Nhưng trong hồ sơ biên niên sử Thổ Phồn hiện có, thì dường như không có chỗ nào đề cập đến việc ông đã tham gia những hoạt động Phật sự gì. Ông đứng đó với tư cách như một đơn vị đồng hành hay nhà tài trợ vậy. Khi ông chỉ đứng đằng sau ủng hộ 2 vị vương phi chứ không trực tiếp tham gia việc “đào long mạch” phiên bản Tây Tạng này, để tránh đắc tội với người khác.

Dù có sự can thiệp của Văn Thành Công chúa nhưng việc xây chùa trấn ma vẫn gặp nhiều sự can nhiễu. Quá trình lấp hồ vô cùng khó khăn khi đất được đổ từng sọt vào một cái động không đáy vậy. Công chúa Xích Tôn là người trực tiếp đảm nhận việc giám sát cũng chỉ thấy nước hồ cuồn cuộn đục ngầu còn đất thì biến mất không dấu vết vậy. 

Khi sự kiên nhẫn đã đạt tới giới hạn, công chúa Xích Tôn thấy gần như quá trình lấp hồ này không có tác dụng dã báo với Tùng Tán Cán Bố. Thấy tình hình không khả quan xảy ra cùng tính thế cả 2 vị vương phi sắp xảy ra cãi vã. Ông đã đến trước tượng Phật, thành tâm thỉnh cầu gia trì sau đó tháo chiếc nhẫn vàng trên tay ra và ném lên không trung, chỉ tay và nói “Hãy bắt đầu lấp đất từ chỗ này” ở tại nơi thi công bên hồ. Với tấm lòng thành tâm cầu nguyện Thần Phật, quả nhiên đất đã thực sự đầy dần lên. Và sau đó công trình đã được tiến hành thuận lợi hơn nhiều. 



Tục ngữ có câu: Con rết trăm chân chết mà không cứng. Dù sau Tùng Tán Cán Bố băng hà thì Bôn giáo vẫn chiếm vị trí quan trong trong thời gian dài. Phải đến đời quân vương thứ 37 thì thế cân bằng giữa 2 tôn giáo này mới bị phá vỡ. Nhưng sau này, từ bình dân đến quý tộc vẫn còn ủng hộ Bôn giáo. Khi đó nhiều người ủng hộ Bôn giáo tập hợp lại đã tạo ra cuộc chiến giữa 2 tôn giáo. Đây chính là cuộc Đại biện luận Phật-Bôn.

Và đây chính là lần đầu tiên Phật giáo chiếm ưu thế và toàn thắng. Sự kiện đã trở thành pháp nạn nặng nề nhất đầu tiên của Bôn giáo.  Quá trình xác lập một tôn giáo mới không phải quá trình đơn giản. Chặng đường này vô cùng gian nan khi xảy ra hàng trăm năm sau thời điểm xây chùa trấn ma. Đó là cột mốc cũng là lần thăng cấp thứ hai của nền văn minh Tây Tạng.

Tuy vậy nhưng Bôn giáo cũng không vì thế mà biến mất. Cuộc chiến lại nảy ra ở khoảng nửa thế kỷ sau khi Xích Tùng Đức Tán chết. Người đã phát động phong trào diệt Phật, phục hưng Bôn giáo chính là vị quân vương cuối cùng của Thổ Phồn - Lãng Đạt Mã. Lần này Phật giáo đã từng mất hết và rơi xuống vực sâu.