Trong các sách truyện, qua báo đài chúng ta thường được nghe nhiều về chuyện quân đội thời xưa luyện tập, sắp xếp trận đồ trước khi ra trận. Nhưng không phải ai cũng biết rằng chuyện bài binh bố trận không phải lúc nào cũng dễ dàng. 

Trong hoàn cảnh của nước ta thời phong kiến, khi có quân xâm lược đến việc sử dụng chiến thuật du kích được các nhà bình luận quân sự cho là phù hợp nhất. Nhưng không phải vì vậy mà quân đội nước ta thời bấy giờ không tập luyện các trận đồ, bởi chỉ có luyện tập mới làm nên sức mạnh của quân đội. 

Hưng Đạo Đại vương khi nói về binh pháp



Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn được biết đến là một trong những nhà chỉ huy tài ba của nước ta thời bấy giờ. Trước khi lâm chung ông còn từng phân tích cho vua Trần Anh Tông nghe về trận pháp rằng: “Ngày xưa Triệu Vũ đế dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế “thanh dã”, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời Đinh, Lê dùng người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì thế.”

Khi nói về những trận chiến khốc liệt do chính ông chỉ huy (Ba lần chống quân Mông-Nguyên), Trần Quốc Tuấn thẳng thắn bình luận: “Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản chế trường là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được”. 

Đích thân Hưng Đạo Đại vương đã sưu tập binh pháp để làm thành “Bát quái cửu cung đồ” và đặt tên cho nó là “Vạn kiếp tông bí huyền thư”. Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư- vị phó tướng của Hưng Đạo Đại vương trong trận chiến thứ ba với quân Nguyên từng viết bài tựa cho cuốn sách ấý như sau: “Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết. Cho nên trận nghĩa là “trần”, là bày ra, là khéo léo”. (Theo: “Đại Việt sử ký toàn thư”)

Không chỉ nhắc lại những trận đồ kinh điển của Trung Quốc như của Gia Cát Lượng, Vệ Công, Lý Thuyên, Hoàn Ôn… mà Nhân Huệ vương còn nhấn mạnh thêm rằng: “Cho nên Quốc công ta mới hiệu đính, biên tập đồ pháp của các nhà, soạn thành một sách, tuy ghi cả những việc nhỏ nhặt nhưng người dùng thì nên bỏ bớt chỗ rườm rà, tóm lược lấy chất thực. Sách gồm đủ ngũ hành tương ứng, cửu cung suy nhau, phối hợp cương nhu, tuần hoàn chẵn lẻ. Không lẫn lộn âm với dương, thần với sát, phương với lợi, sao lành, hung thần, ác tướng, tam cát, ngũ hung đều rất rõ ràng, ngàng với Tam Đại, trăm đánh trăm thắng. Cho nên, đương thời có thể phía Bắc trấn ngự Hung Nô, phía Nam uy hiếp Lâm Ấp…”

Theo Đại Việt sử ký toàn thư vào năm Nguyên Phong thứ 3 (1253) dưới thời vua Trần Thái Tông, nhà vua đã cho xây dựng Giảng Võ đường phụ vụ cho việc luyện quân. Sau đó Vua Trần Thánh Tông vào tháng 3/1262 có xuống chiếu cho các quân chế tạo vũ khí, chiến thuyền và cho thủy quân, lục quân đi tập trận trực tiếp ở chín bãi phù sa sông Bạch Hạc. Tiếp đó dưới triều vua Trần Thánh Tông vào tháng 8/1268, vua hạ chiếu định quân ngũ “mỗi quân 30 đô, mỗi đô 80 người, chọn người tôn thất giỏi võ nghệ, tinh binh pháp để chỉ huy”. 

Không chỉ vậy Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn còn được Vua Trần và Thái Thượng Hoàng tiến phong làm Quốc Công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc, để chỉ huy cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba. Để chuẩn bị cho trận đánh này vào tháng 8/1284, Hưng Đạo vương đích thân sắp xếp chia các quân của vương hầu duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu, chia các quân khác đóng giữ ở Bình Than và các nơi xung yếu khác. 

Tuy trong bộ sử lại không ghi lại cụ thể quân đội thời Trần tập trận như thế nào. Nhưng ta có thể thấy được yếu tố binh pháp đã được nhà Trần đưa vào trong quân đội, có thể nói đây là một trong những bí quyết giúp nhà Trần ba lần đánh thắng quân Mông-Nguyên, tạo nên những chiến công vang dội hiển hách, giữ vững được độc lập chủ quyền của nước nhà. 



Phép tập trận thời Lê

Trong cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư” có ghi lại việc tập trận đồ ở nước ta lần đầu được tổ chức là dưới thời Vua Lê Thái Tổ. Ngay trong khi đang vây giặc Minh trong thành Đông Đô, tướng quân Lê Lợi đã dụ bảo tướng sĩ: “Số quân hiện tại của ta nay có 35 vạn, đợi khi nào khôi phục được Đông Đô, bấy giờ sẽ cho 25 vạn về làm ruộng, chỉ để lại 10 vạn quân ở lại làm việc phòng thủ và bảo vệ đất nước”. Vào năm Thuận Thiên thứ 2 nhà vua sắc sai các vệ quân ở 5 đạo đều diễn tập thủy chiến và lục chiến, đến khi xong việc thì chia quân thành 5 phiên, 4 phiên được cho về quê làm ruộng đúng như lời hứa còn 1 phiên thì được lưu lại tại ngũ. 

“Phàm đã có quốc gia, tất phải có vũ bị, vậy thì nên nhân lúc nhà nông nhàn rỗi, tạm hoãn những việc không cần, mỗi tháng cứ đến ngày rằm là binh lính đến phiên thay đổi thì lượng lưu lại một số để canh giữ, còn bao nhiêu người thi 1-2 ngày đầu, Tổng quản, Tổng tri được phép dựa vào trận đồ, điều chỉnh dốc sức chia thành từng đội, từng ngũ, dạy chúng biết phép ngồi đứng tiến lui, nghe rõ hiệu lệnh về chiêng trống, làm cho quân sĩ tập quen việc bắn cung tên, không quên việc vũ bị, đến ngày thứ tư trở đi mới được sai phái. Nếu người nào không biết dụng tâm dạy bảo luyện tập, dám làm điều phiền tạp nhũng nhiễu, sẽ luận vào tội giáng chức hoặc bãi chức.” đó là toàn bộ đoạn trích trong cuốn “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” được ghi chép về phép luyện quân của thời nhà Lê. 


Tin liên quan

Mộ cổ xuất hiện trong sân nhà có độ tuổi lên đến 1.100 năm tuổi chứa đầy kho báu 


Vua Lê Thánh Tông cũng xét duyệt và ban bố nhiều phép tập trận đồ của thủy quân và quân bộ. Theo đó thủy trận có các phép như: trung hư, tam tài, thất môn, xà mãn… Nhà vua thậm chí còn ban bố 31 điều quân lệnh về thủy trận, 32 điều quân lệnh về tượng trận, 27 điều quân lệnh về mã trận và 42 điều về bộ trận của quân túc vệ kinh sư. Như vậy quân đội của vua Lê Thánh Tông về voi có 4 vệ Tuần tượng, về ngựa có 4 vệ Mã nhân. Ngoài ra nhà vua còn cho đào hồ Hải Trì và dựng điện Giảng Võ cạnh hồ để luyện quân. Cho đến thời Vua Lê Hiến Tông thì Giảng Võ còn là nơi nuôi voi trận. 

Vào thời Lê hồ Lục Thủy (hồ Hoàn Kiếm ngày nay) là nơi luyệ tập chính của thủy quân nên ngoài ra nó còn có tên gọi khác là hồ Thủy Quân. Bên hồ có tòa lầu Ngũ Long được Chúa Trịnh cho xây dựng để có thể xem thủy quân diễn tập, duyệt binh.


Tập trận không dễ 

Từ trước đến nay việc tập luyện trong quân ngũ chưa bao giờ là điều dễ dàng. Việc tập trận quan trọng nhất chính là ở kỷ luận và hiệu lệnh của chỉ huy. Như trong sử sách thời Xuân Thu ở Trung Quốc có ghi lại để rèn cho các nữ binh mới tuân thủ hiệu lệnh Ngô vương Hạp Lư đã phải chém đầu người đội trưởng để thị uy. 

Ở nước ta dưới triều nhà Lê cũng từng xảy ra sự việc tương tự. Theo như ghi chép vua Lê Thánh Tông đã phong cho Hán Đình và Nguyễn Đức là Trấn kiện phó tướng quân sau khi hai người dâng lên nhà vua 2 trận đồ và được khen ngợi. Sau khi được phong chức vua sai họ dạy quân 5 phủ diễn tập nhưng vì tập mãi không thành thục nên nhà vua ngay lập tức bãi chức và phạt tội cả hai người. Khi ghi chép đến đoạn này các sử quan triều Nguyễn chê rằng: “Xem thế có thể biết được những việc tập trận đều là trang sức danh tiếng hão”.

Phần “Binh chế chí” trong cuốn “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú có đoạn viết về phép thi trận pháp của thời Lê trung hưng như sau: “Cứ 3 năm một kỳ, vào mùa đông các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì Bộ Binh tổ chức thi Bác cử. Các phép tiến lên đứng lại, phép đặt doanh bày trận, đều theo lệnh trong đội truyền ra. Mùa xuân các năm Dần, Thân, Tị, Hợi, sau khi tế cờ xong thì thi bộ binh ngoài bãi sông (sông Hồng). Phàm phép tiến lên đứng lại, phép đặt doanh ngoài trận, đều có theo lệ hoặc có thêm bớt, cũng theo lệnh trong nội. Theo bộ sách này thì các vệ, đội nếu thực hành tốt thì được thưởng, hạnh bình thường chỉ được phát tiền cơm. Các đội ngũ xếp hạng thấp nhất sẽ bị phạt tiền, thậm chí còn không phát tiền cơm cho binh lính.”