Bài viết này được lấy từ blog của tác giả Bảo Anh Thái ( https://baoanhthai.substack.com/ )
Primakov là một người Do Thái tính theo mẹ ông (mẹ Primakov là người Do Thái và vì thế, theo cách tính của người Do Thái, ông là một thành viên của dân tộc này). Primakov sinh ra tại Kiev năm 1929 và có bố từng bị đi cải tạo trong trại tập trung Gulag do bị thanh trừng dưới thời Stalin. Ông lớn lên tại Tbilisi, thủ đô của Gruzia (Georgia ngày nay). Mặc dù có bố từng bị đi cải tạo nhưng ở tuổi 27, Primakov đã là phóng viên của báo Pravda (Báo Sự thật), cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng sản Liên Xô (tương tự như Báo Nhân dân ở Việt Nam). Vì thành thạo tiếng Arab, ông đã được cử sang Trung Đông làm đại diện cho báo Pravda và Đài phát thanh toàn liên bang Xô Viết (tương tự như Đài Tiếng nói Việt Nam) ở khu vực này.
Chúng ta không biết Primakov đã gia nhập lực lượng tình báo của KGB vào lúc nào nhưng đến giờ chúng ta biết là trong suốt 14 năm hoạt động tại Trung Đông từ năm 1956 tới 1970, ông là một cán bộ tình báo của KGB. Điểm đáng lưu ý là, chính trong khoảng thời gian này Liên bang Xô Viết đã tạo lập được mối quan hệ chiến lược với Ai Cập và Syria. Hai quốc gia này có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược đối ngoại của Liên Xô vì thông qua Ai Cập, Liên Xô có thể khống chế kênh đào Suez, kênh vận tải huyết mạch sống còn đối với châu Âu. Qua Syria, Liên Xô có thể tác động tới các quốc gia có trữ lượng giàu mỏ lớn ở Trung Đông là Iraq và Iran, kiềm chế Thổ Nhĩ Kỳ (tiền đồn phía Nam của khối NATO) và Israel, đồng minh quan trọng nhất của Mỹ ở Trung Đông.
Tuy rằng các cuộc chiến tranh giữa một bên là Ai Cập, Syria và một bên là Israel, đồng minh của Mỹ, là các thất bại về quân sự đối với Bộ quốc phòng Liên Xô (cơ quan đã cung cấp vũ khí, tổ chức và huấn luyện cho quân đội hai quốc gia trên) nhưng đối với KGB thì việc Liên Xô, trong một thời gian ngắn, đã đi từ chỗ chưa bao giờ có mối quan hệ với khu vực này tới việc có được hai đồng minh quan trọng, có căn cứ quân sự và trở thành người có tiếng nói quan trọng đối với tình hình chính trị khu vực – là một thành công chưa từng có. Nước Nga trước thời Liên Xô, trong lịch sử 1000 năm của mình, hoàn toàn không có bất kỳ quan hệ hay ảnh hưởng nào tới khu vực này.
Chúng ta không biết Primakov đã làm gì ở Trung Đông giai đoạn này nhưng vào năm 1974 (4 năm sau khi ông rời khỏi Trung Đông về nước), ông được Ai Cập trao giải thưởng mang tên cố tổng thống Nasser, một giải thưởng cao quý nhất của nước này cho các nhân vật dân sự cả trong và ngoài nước. Chúng ta biết rằng trong giai đoạn 1950 tới 1975 là giai đoạn mà các lực lượng tình báo Liên Xô và Mỹ, Anh và Pháp đối đầu nhau khốc liệt nhất để tranh giành ảnh hưởng tại khu vực cung cấp dầu khí lớn nhất cho toàn thế giới này. Do đó, đối thủ của Primakov tại đây chính là các quốc gia nòng cốt của khối NATO.
Vào năm 1963, cả Liên Xô và Mỹ nhận thấy rằng cả thế giới đã kề cận sát một cuộc chiến tranh hạt nhân. Các tài liệu được công bố sau khi Liên Xô sụp đổ cho thấy vào đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng, các tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân của Liên Xô đã được lệnh ém dưới đáy biển sát nước Mỹ và chỉ nhận tín hiệu một chiều từ Moscow (để không bị người Mỹ phát hiện do tàu truyền tin về Liên Xô). Tín hiệu một chiều đó từ Liên Xô sẽ được phát định kỳ. Nếu như các tàu ngầm nhận được một mệnh lệnh tấn công hạt nhân rõ ràng thì tàu sẽ tiến hành bắn tên lửa hạt nhân vào Mỹ theo kế hoạch định trước. Nếu không nhận được một mệnh lệnh rõ ràng và tín hiệu định kỳ từ Moscow không còn thì tàu phải coi trường hợp đó là Liên bang Xô Viết đã bị tiêu diệt bởi một cuộc tấn công vũ khí hạt nhân và lúc đó họ sẽ tiến hành bắn tên lửa vào Mỹ mà không đợi một mệnh lệnh cụ thể nữa. Điều làm cho tất cả các bên toát mồ hôi là trường hợp một tàu ngầm của Nga đã không nhận được tín hiệu thường xuyên của Moscow. Theo quy định, họ sẽ phải hành động theo điều lệnh là sau một thời gian không nhận được tín hiệu báo an toàn của Moscow, họ sẽ phải tấn công bằng tên lửa hạt nhân. Tuy nhiên, thuyền trưởng tàu ngầm đã nghi ngờ rằng hiết bị nhận tín hiệu của tàu có vấn đề nên đã không ra lệnh tấn công mà quyết định nổi lên mặt biển và để lộ vị trí tàu cho hải quân Mỹ để kiểm tra tín hiệu. Khi nổi lên khỏi mặt nước, họ phát hiện ra là cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã chấm dứt từ 2 tuần trước đó và ăng ten nhận tín hiệu dưới nước của tàu thực sự có vấn đề nên họ đã không nhận được lệnh cho phép rút quân của Moscow.
Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, việc phối hợp giữa Liên Xô và Mỹ trong việc ép tất cả các bên Ai Cập, Israel, và cả Anh và Pháp buộc phải chấm dứt cuộc chiến tranh 6 ngày vào năm 1973 khiến cho Mỹ và Liên Xô thấy rằng cần phải có một kênh đối thoại thường xuyên, có vai trò trên danh nghĩa là không chính thức nhưng lại phải phản ánh sát quan điểm của hai chính phủ để trao đổi các vấn đề quan trọng nhất giữa hai bên nhằm ngăn chặn cuộc chiến tranh Lạnh biến thành một cuộc chiến tranh nóng. Kênh trao đổi được hai bên lựa chọn là các cuộc hội thảo Dartmouth. Đây là các cuộc hội thảo thường kỳ giữa một số nhà khoa học xã hội không thuộc các cơ quan chính phủ của Mỹ và Liên Xô được tổ chức hàng năm. Điều đặc biệt của các cuộc hội thảo này là nhân sự tham gia chính của hai bên gần như không thay đổi và các nội dung trao đổi thực sự giữa hai bên lại không được công khai. Đoàn đại biểu tham dự của cả hai bên đều có quan hệ mật thiết với chính quyền và thậm chí, việc cung cấp các quan điểm ngầm của chính phủ mỗi bên cho đoàn tham dự hội thảo trở thành một thủ tục đương nhiên.
Người đứng đầu phía Liên Xô là nhân vật của chúng ta, Yevgeny Primakov. Sau khi trở về từ Trung Đông, Primakov trở thành phó giám đốc Viện Nghiên cứu Quan hệ Quốc tế và Kinh tế Thế giới. Sau này ông kiêm thêm chức vụ phó giám đốc của Ủy ban Hòa bình Quốc tế Liên Xô. Cả hai cơ quan này đều được Liên Xô sử dụng như các kênh ngoại giao phi chính thức để làm việc với Mỹ (trường hợp Viện nghiên cứu) và với phầ1n còn lại của thế giới (trường hợp Ủy ban Hòa bình).
Mặc dù là phó giám đốc thường trực của cả hai tổ chức trên nhưng Primakov lại gần như không tham gia vào công việc điều hành của hai tổ chức này trong giai đoạn chiến tranh lạnh. Do đó, có quan điểm cho rằng tới lúc đó, ông thực ra là một quan chức cao cấp của KGB và các chức vụ trên chỉ là vỏ bọc để ông đại diện cho nhà nước Liên Xô một cách không chính thức trong các cuộc mặc cả ngầm của thời kỳ chiến tranh lạnh. Vì các hoạt động này, ông đã được huân chương Lenin, huân chương cao quý nhất trao cho các cá nhân dân sự ở Liên bang Xô Viết.
Sau khi cuộc đảo chính 1991 (với việc chủ tịch KGB là phó chủ tịch của hội đồng đảo chính) thất bại thì cả Gorbachev lẫn Yeltsin đều nghĩ rằng cơ quan này phải được cải tổ triệt để để nó không thể trở thành một lực lượng đảo chính. Gorbachev bổ nhiệm tướng Leonid Sherbashin, người phụ trách tình báo đối ngoại của KGB lên làm chủ tịch mới. Tuy nhiên Sherbashin chỉ tại vị có đúng một ngày thì bị Gorbachev cắt chức vì Yeltsin phản đối nhân vật này. Tướng Vadim Bakatin, cựu bộ trưởng nội vụ được Gorbachev bổ nhiệm thay cho Sherbashin. Yeltsin chấp nhận bổ nhiệm này với điều kiện là Primakov được bổ nhiệm là phó chủ tịch thường trực của KGB (Yeltsin đề nghị điều đó bất chấp việc Primakov đã từng là một thành viên của hội đồng cố vấn của Gorbachev).
Trên thực tế, Primakov mới là người thực sự điều hành KGB và kế hoạch cải tổ nó. Trong thời gian tại vị ngắn ngủi chưa tới 2 tháng của mình, Bakatin chủ yếu giành thời gian để tạo lập các mối quan hệ chính trị với các thế lực ở trong lẫn ngoài nước. Để lấy lòng những người Mỹ, Bakatin, trên cương vị chủ tịch KGB, đã tiết lộ cho phía Mỹ các thiết bị nghe trộm mà phía Nga đã cài trong tòa nhà mà người Mỹ dự định sẽ dùng làm trụ sở đại sứ quán mới. Mặc dù điều này được Bakatin giải thích là để tạo lòng tin với đối tác Hoa Kỳ (để họ thấy rằng Nga thực sự không còn là kẻ thù của Mỹ) nhưng nhiều người coi đó là một hành động phản quốc vì trước khi là chủ tịch KGB, Bakatin là bộ trưởng nội vụ nên không thể ngây thơ như vậy. Sau khi là người về cuối cùng trong 6 ứng cử viên trong cuộc bầu cử tổng thống Nga năm 1996, Bakatin biết mất khỏi lịch sử.
Việc giải tán KGB và chuyển giao toàn bộ bộ máy, nhân sự từ cấp liên bang về cho nước Nga đã được Primakov hoàn thành xuất sắc. Không có một cuộc thanh trừng nào diễn ra trong nội bộ KGB. Toàn toàn thể các nhân viên và mạng lưới tình báo ở nước ngoài được tái cơ cấu lại trong khuôn khổ nhà nước Nga.
Để hiểu được ý nghĩa quan trọng đặc biệt của việc Primakov đã làm thì cần phải nhìn lại lịch sử của cơ quan an ninh Liên Xô. Trong lịch sử của cơ quan này, các cuộc thanh trừng chính trị trong chính quyền Liên Xô thường dẫn tới các thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng tới cơ quan an ninh và tình báo. Khác với đa số các nước, ở Liên Xô, chức năng phản gián và tình báo được tập trung và một cơ quan là KGB (trong khi đó ở Mỹ thì FBI là cơ quan phụ trách phản gián còn CIA là cơ quan phụ trách tình báo và hai cơ quan này độc lập với nhau). Điều này khiến cho KGB (và tiền thân của nó là NKVD) có vai trò đặc biệt lớn trong cán cân quyền lực của đất nước. Các thay đổi lớn về đường lối trong đảng Cộng sản Liên Xô thường đi kèm với thanh trừng về mặt nhân sự. Và mỗi lần như vậy các nhân sự cao cấp của KGB sẽ bị thanh trừng và thay thế. Việc các nhân sự cao cấp này bị thanh trừng sẽ khiến cho hàng loạt cán bộ tình báo ở nước ngoài (bao gồm cả người của KGB lẫn tình báo viên người nước ngoài) sẽ đào tẩu sang phía kẻ thù hoặc tìm cách cắt mọi liên lạc và hoạt động.
Các cuộc thanh trừng của Stalin những năm 30 và thanh trừng sau khi Stalin chết trong thập niên 50 đã dẫn tới việc hệ thống tình báo của Liên Xô ở nước ngoài đổ vỡ nhiều mảng lớn và người mới lên nắm KGB phải mất một thời gian dài để khôi phục lại hệ thống. Primakov là người đầu tiên làm được việc cải tổ KGB về mặt bản chất (tách chức năng tình báo và phản gián ra 2 cơ quan độc lập), chuyển nó từ Liên bang Xô Viết về Liên bang Nga mà không bị xâu xé bởi các nước cộng hòa khác (như việc chia sẻ lực lượng quân đội Liên Xô). Cả Boris Yeltsin lẫn Vladimir Putin đều hiểu rất rõ ý nghĩa của việc này.
Đối với Yeltsin, Primakov là một người hội tụ rất nhiều thứ ông không có. Thứ nhất, đó là sự hiểu biết về tình hình chính trị kinh tế thế giới. Thứ hai, kinh nghiệm của một người đại diện của Liên Xô trong các cuộc đàm phán phi chính thức với các đối thủ nguy hiểm nhất và đối tác quan trọng nhất. Thứ ba, sự hiểu biết, khả năng quản lý hệ thống và con người của bộ máy đồ sộ KGB – trong đó đặc biệt là khả năng thuyết phục họ đi theo ông với bằng chứng là ông đã thành công trong việc giành được sự trung thành của KGB với Liên bang Nga sau khi Liên Xô tan rã. Thứ tư, và là điều quan trọng sống còn đối với Yeltsin, đó là Primakov hiểu rõ rằng việc tập trung quá nhiều quyền lực vào KGB đã khiến bộ máy này vừa kém hiệu quả trong việc đối phó với kẻ thù và các bất ổn nhưng lại trở thành mối đe dọa với sự tồn vong của chính quyền (khi tổ chức này tham gia đảo chính). Chính điều này đã khiến cho Primakov quyết định phân chia quyền lực của cơ quan an ninh của Liên bang Nga thành hai hai cơ quan độc lập, một phụ trách tình báo, một phụ trách an ninh.
Đối với Putin, Primakov đã làm được điều mà các lãnh đạo KGB đã không làm được vào năm 1989 – đó là duy trì được sự hoạt động của KGB chứ không bị tê liệt khi thảm họa xảy ra. Vào năm 1989, Putin là một thiếu tá tại trạm KGB tại thành phố Dresden, Đông Đức. Sau khi bức tường Berlin sụp đổ những người biểu tình đã kéo tới đốt phá trụ sở cơ quan an ninh Đông Đức (Stassi) ở ngay đối diện trụ sở chi nhánh KGB của Putin. Lo sợ rằng trụ sở sẽ bị cướp phá và các tài liệu mật sẽ bị đám đông lấy mất, Putin đã yêu cầu bộ chỉ huy Hồng quân tại Dresden đưa quân tới bảo vệ. Bộ chỉ huy nói rằng Putin phải nói chuyện với bộ chỉ huy của quân đội Liên Xô tại Berlin. Khi Putin gọi thì họ nói rằng họ phải có lệnh từ Moscow. Tất nhiên là Putin không có quan hệ ở bộ quốc phòng tại Moscow nên ông gọi cho trụ sở chính của KGB – họ nói ông chờ một cuộc gọi lại với mệnh lệnh cần thiết. Tuy nhiên, không có ai gọi lại cả. “Moscow im lặng” đó là điều mà Putin kể lại sau này trong một cuộc phỏng vấn với ánh mắt lạnh như băng nhìn vào người phỏng vấn. Việc cả một bộ máy KGB cũng như ban lãnh đạo Liên Xô bị tê liệt trước các cuộc bạo động dân sự tại Đức đã khiến cho Putin thay đổi cách nhìn về hệ thống nhà nước. Ông nói với đại ý là bạn chiến đấu với ý nghĩ rằng lãnh đạo luôn đứng sau lưng bạn nhưng vào thời điểm nguy hiểm nhất, họ im lặng.
Vào năm 1989 đó, Putin đã chọn một cách giống như câu chuyện mở cổng thành lên lầu gẩy đàn mà La Quán Trung gán cho Gia Cát Lượng. Ông bước ra đối diện với những người biểu tình và nói với họ bằng tiếng Đức rằng đây là trụ sở của KGB chứ không phải Stassi và họ cần biết rằng trong trụ sở họ có Hồng quân và họ sẽ bắn tất cả những ai bước qua ngưỡng cửa mà không được phép. Những người biểu tình do dự rồi bỏ đi. Thực tế, bên trong trụ sở lúc đó chỉ có các nhân viên tình báo và không có binh lính nào cả. Với những gì đã trải qua đó, dưới con mắt của một cấp dưới đã trực tiếp đối diện với sự nguy hiểm chết người và bị cấp trên “bỏ rơi”, Putin đánh giá đặc biệt cao vai trò của Primakov khi ông vừa thay đổi được hệ thống nhưng vẫn bảo vệ được những con người trong đó.
Sự tin tưởng của Yeltsin lớn tới mức, ông đã đề nghị lựa chọn vị trí đứng đầu Cục Tình báo hoặc Cục Phản gián sau khi cải tổ KGB. Primakov đã chọn đứng đầu Cục Tình báo, mảng mà ông đã hoạt động suốt nhiều chục năm. Primakov nắm Cục Tình báo trong suốt nhiệm kỳ đầu tiên của Yeltsin từ năm 1991 tới 1995. Đây là một kỷ lục vì trong nhiệm kỳ đầu tiên, thời gian tại chức trung bình của những người lãnh đạo các cơ quan quyền lực quân sự, an ninh của Nga chỉ là 1 năm.
Khi Yeltsin trúng cử nhiệm kỳ 2, ông bổ nhiệm Primakov vào chức vụ bộ trưởng ngoại giao (trong thời gian từ 1996 tới 1998). Dưới thời Primakov làm bộ trưởng ngoại giao, Yeltsin để cho ông có một quyền tự quyết rất lớn khiến cho đôi khi phương Tây bị bối rối khi cảm giác rằng Nga có hai chính sách đối ngoại – một chính sách của Tổng thống và một chính sách của Bộ trưởng ngoại giao.
Ngay sau khi trở thành bộ trưởng ngoại giao, Primakov đã nêu quan điểm về vai trò của nước Nga ở nhiều nơi, trong nhiều dịp. Tổng hợp các quan điểm đó lại thì sẽ có mấy điểm như sau:
· Thứ nhất, nước Nga là một chủ thể không thể bỏ qua trên vũ đài chính trị thế giới và có một chính sách ngoại giao độc lập.
· Thứ hai, nước Nga cần theo đuổi việc hình thành một thế giới đa cực trong đó có một sự phối hợp/hợp tác chặt chẽ giữa các cường quốc sẽ được tạo ra để làm đối trọng với Hoa Kỳ.
· Thứ ba, nước Nga phải duy trì vai trò lãnh đạo trong không gian địa chính trị thuộc Liên Xô cũ.
· Thứ tư, nước Nga cần phải làm mọi việc có thể để ngăn chặn việc mở rộng của khối NATO sang phía Đông.
· Thứ năm, nước Nga phải cùng hội nhập cả hai không gian kinh tế chính trị lớn của thế giới là châu Âu và châu Á.
· Thứ sáu, nước Nga phải hướng tới xây dựng một mối quan hệ đối tác với Trung Quốc và Ấn Độ.
· Thứ bảy, nước Nga phải tạo lập lại được các quan hệ với các nước Trung Đông và có ảnh hưởng tại khu vực này.
Nếu các bạn nghe thấy các điều trên quen quen thì đó là chuyện dễ hiểu vì các quan điểm này được Putin và các lãnh đạo Nga lặp lại nhiều lần, ở nhiều nơi trong suốt 20 năm qua và được diễn giải, cụ thể hóa trong “Ý tưởng về chính sách đối ngoại của Liên bang Nga” (“Ý Tưởng”) được ban hành ngày 31/3/2023. Nếu so sánh, chúng ta sẽ thấy các nội dung của Ý Tưởng năm 2023 về cơ bản là sự diễn giải các quan điểm của Primakov với các điều chỉnh cho phù hợp với tình hình hiện tại.
Vào năm 2014, trong dịp kỷ niệm sinh nhật của Primakov (và là lễ kỷ niệm sinh nhật cuối cùng của ông) ngoại trưởng Nga Lavrov đã cảm ơn ông về tất cả những gì ông đã làm và gọi các quan điểm của ông “Học thuyết Primakov”.
Với tư cách là bộ trưởng ngoại giao, Primakov đã tiếp xúc nhiều lần với các quan chức Hoa Kỳ để thể hiện sự phản đối của Nga đối với việc mở rộng sang phía Đông. Vào đầu 1997, ông gặp một thượng nghị sỹ đại diện bang Delaware và là thành viên của hội đồng đối ngoại của Thượng viện Hoa Kỳ. Ngày 20/6/1997, vị thượng nghị sỹ này kể lại câu chuyện này trong một cuộc họp báo. Trước hết, ông nói rằng ông hiểu tại sao người Nga lại lo lắng về việc NATO mở rộng về phía Đông. Tuy nhiên ông nói rằng “nếu các bạn [những người dự họp báo] ở vào địa vị của tôi thì các bạn cũng sẽ có cùng quan điểm với tôi. [Đó là, dù lo ngại thế, nhưng] ‘Họ có thể đi đâu [để có được sự hỗ trợ]?’. Tôi có một cuộc hội thoại rất thú vị với [không rõ tên] về việc họ [người Nga] nói rằng họ không muốn NATO mở rộng, họ không cảm thấy an toàn, vân vân và vân vân... và [họ nói rằng] nếu các ông làm như vậy [mở rộng NATO] thì chúng tôi sẽ phải tìm cách hợp tác với Trung Quốc. Và tôi không thể kiềm chế được việc thể hiện quan điểm của bang [mà tôi đại diện] về vấn đề thế giới bằng cách nói rằng ‘chúc may mắn! Và nếu cách đó mà không có hiệu quả thì hãy thử với Iran’”. Tất cả mọi người trong khán phòng đã cười to vì sự hài hước của câu chuyện. Tuy nhiên, dù hài hước, nhưng câu chuyện trên sẽ không đáng để chúng ta phải viết đầy đủ nếu như thượng nghị sỹ đó không phải là Joe Biden, đương kim tổng thống Mỹ ngày nay.
Như vậy, chúng ta đã thấy rằng, tất cả những vấn đề mà nước Nga phải đối diện, cách nhìn nhận về vai trò của nước Nga khi quay trở lại vũ đài chính trị thế giới mà Putin nói trong suốt thời gian từ năm 2000 tới nay không có gì khác nhiều với những gì mà Primakov đã vạch ra từ năm 1996. Nói một cách khác, Putin, với tư cách là tổng thống Nga, chỉ lặp lại những gì mà Primakov đã đề ra với tư cách là bộ trưởng ngoại giao từ trước khi Putin được mọi người biết đến.
Tuy nhiên, nếu ở đây bạn cho rằng Putin chỉ đơn thuần là đã ăn trộm ý tưởng của Primakov và biến nó thành của mình thì bạn đã lầm. Chúng ta cần phải nhìn tiếp vào các sự kiện sau đó thì hiểu được nguồn gốc hình thành của chính sách đối ngoại của Nga.
Vào tháng 9/1998, lần đầu tiên Putin xuất hiện trên chính trường nước Nga với tư cách là giám đốc FSB. Chỉ hơn 1 năm sau ông trở thành tổng thống nước Nga và từ đó tới nay tác động tới mọi sự kiện quan trọng trên thế giới và sẽ tạo ra những thay đổi mà chủ tịch Tập Cận Bình nói là chưa từng có và sẽ tác động tới thế giới trong 100 năm tới. Để hiểu được sự quay lại của nước Nga, chúng ta cần phải biết được những ai đã đưa Putin lên vị trí tổng thống Nga, những người đã giúp ông đề ra chính sách và thực hiện nó để thay đổi nước Nga và tạo cho nó sức mạnh như ngày nay. Ở phần tiếp theo, chúng ta sẽ bàn về những người đã đưa ông lên vị trí Tổng thống Nga.
- Trận hồ Chudskoe : nơi "lời nguyền nước Nga" ám ảnh nước Đức cả ngàn năm
- Nguồn gốc của món bánh trung thu mỗi dịp rằm tháng 8
- Chế độ khoa cử thời phong kiến nước ta (phần 2)
- Chế độ khoa cử thời phong kiến nước ta (phần 1)
- Đội quân quả cảm giúp nhà Trần ba lần đánh bại quân Nguyên là ai?
- “Dược vương” đất Việt là ai?
- Top 7 kỉ lục thú vị của các vị vua phong kiến Việt Nam
- Cách tập trận đồ của quân đội Đại Việt ngày xưa.
- Tall – EL – Hammam và những phát hiện thú vị
- Con trai Thành Cát Tư Hãn nhờ sách lược của cha để lại đã đánh bại hoàn toàn nhà Kim ở Trung Hoa
- Trong chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh của Lý Chiêu Hoàng có gì?
- Phan Huy Ích - người có tài năng không những về chính trị, văn chương và có tâm huyết với thời cuộc.
- Hoàng hậu trong lịch sử Trung Quốc vẻ ngoài chưa phải “sắc nước nghiêng thành” nhưng lại được người người kính nể là ai?
- Lan can đá chùa Bút Tháp mang nhiều thông điệp ý nghĩa
- Thế lực không ngang hàng là cụm từ để chỉ trận chiến Thermopylae chỉ với 300 quân Sparta mà chiến đấu với 1 vạn quân Ba Tư
- “Thưởng - Phạt” ngày Tết của triều Nguyễn sẽ như thế nào?
- Hoàng tử thứ 9 của vua Khang Hy - “thiên tài” ngôn ngữ
- Đời sống người Việt cổ được kể lại nhờ thanh kiếm 2000 năm tuổi
- 8 nhà cầm quân thất bại nhất trong lịch sử
- Giữa núi rừng Sri Lanka được cho là có sự xuất hiện của một công trình cổ đại có tên là ‘Sư Thành’