Khoa cử là một trong những hình thứ cơ bản để nhà nước phong kiến tìm kiếm người tài giúp đất nước phát triển. Vì thế mà kì thi có rất nhiều những thủ tục, cơ chế nghiêm ngặt. Nếu như vi phạm vào các quy chế thi thí sinh có thể bị phạt rất nặng như đánh trượng hay bỏ tù. 

Thi hội và thi đình. 

Đây là cửa ải thứ hai mà các sĩ tử phải trải qua, là cuộc kiểm tra đánh giá cao nhất để tìm ra các bậc anh tài cho đất nước. Cũng chính vì vậy mà hai cuộc thi này được gọi là đại tỉ (thi lớn). Người xưa thường quen gọi thi hội và thi đình là đại khoa. Đại khoa gồm có có hai giai đoạn thi: đó là thi hội và thi đình. 

Cũng giống như thi hương, thi hội có 4 kỳ tất cả những người đỗ thi hội sẽ được cấp bằng tiến sĩ. Thi hội là cuộc thi dành cho những người đã vượt qua kì thi hương và đã có bằng cử nhân ngoài ra còn dành cho cả các giám sinh đã mãn khóa ở Quốc tử giám. Những người đỗ đạt những kì thi như thế này đều được phong cho các danh hiệu riêng, tùy vào từng thời đại khác nhau các danh hiệu cũng sẽ khác nhau (Thái học sinh, Tiến sĩ). Danh hiệu Thái học sinh xuất hiện từ khoa thi Nhâm Thìn (năm 1232) dưới triều vua Trần Thái Tông cho đến khoa thi Canh Thìn (năm 1400) đời Hồ Quý Ly. Còn danh hiệu Tiến sĩ lần đầu xuất hiện vào khoa thi Nhâm Tuất (năm 1442) và được giữ nguyên cho tới khoa thi cuối cfung dưới triều vua Nguyễn Khải Định (năm 1919). 

Thi đình hay còn gọi là điện thi, các sĩ tử sẽ được thi trực tiếp tại triều đình. Nhà vua trực tiếp hỏi bài các sĩ tử. Thi đình chỉ nhằm xếp loại các tiến sĩ đã đỗ ở thi hội trước đó mà thôi. Dưới triều nhà Lê có một số khoa vì hoàn cảnh loạn lạc mà không tổ chức tổ chức thi đình nhưng vẫn có xếp loại tiến sĩ. 

Ngoài các khoa thi cố định kể trên triều đình còn mở các khoa thi đột xuất khác. Các khoa thi đặc biệt này còn được gọi là Ân khoa. 

Tiến sĩ cũng được chia thành 6 cấp bậc khác nhau. (1) Trạng nguyên, (2) Bảng nhãn, (3) Thám hoa là thuộc đệ nhất giáp được người đời mệnh danh là Tam khôi, có thòi khác thì gọi là Tiến sĩ cập đệ. Sau đệ nhất giáp là đệ nhị giáp (chính bảng) gồm có (4) Hoàng giáp (có thời được gọ là Tiến sĩ xuất thân). Tiếp đó là đệ tam giáp có (5) Đồng tiến sĩ xuất thân. Và cuối cùng là (6) Phó Bảng- sản phẩm của khoa cử thơi nhà Nguyễn bắt đầu xuất hiện từ khoa thi Kỷ Sử (năm 1829) dưới đời vua Minh Mệnh. 

Giữa tiến sĩ và Phó Bảng cũng có những quy định về tỉ lệ và ngạch đỗ. Ví dụ như ở khoa thi năm 1843 đời Thiệu Trị có tổng cộng 25 người đỗ thì chỉ có 10 người là Tiến sĩ còn lại 15 người đều là Phó Bảng. 

Cả hai kì thi thi hội và thi đfinh đều diễn ra vào tháng 8: mùa xuân thi hội đến mùa thu năm ấy thi đình. 

Cũng giống như thi hương thi hội có 4 kì. Ở kì thứ nhất thí sinh được làm kinh nghĩa và kinh truyện mỗi thứ một bài và mỗi bài phải dài tối thiểu 1000 tiếng. Đến kì thi thứ tư các sĩ tử phải làm một bài văn sách yêu cầu tối thiểu 1600 tiếng. 

Trong lịch sử có một khoa thi còn có thêm kỳ thứ 5 hỏi về toán. Đó là khoa thi nhà Hồ năm 1405. Sự thay đổi của mỗi triều đại đã làm nên nét đặc sắc của khoa cử nước ta. 

Theo như sách Kiến văn thiếu thục của Lê Quý Đôn từng viết. Vào năm 1721 triều đình ra quy định yêu cầu về mức điểm của mỗi kì thi. Ở kì thứ nhất các bài thi phải đạt 8/10, kì thứ 2 là 7/10, kì thứ ba là 5/10.



Nguyên tắc chung của mỗi lì thi là một bài thi phải được qua hai lần chấm sơ khảo vf phúc khảo. Nếu như sĩ tử đủ điều kiện vướt qua kì thi thứ nhất thì mới có thể được thi tiếp ở kỳ thứ hai và tương tự như vậy cho đến các kì sau. Những sĩ tử đỗ sẽ được chia vào hai bảng: chính bảng và phó bảng. Chỉ có người đỗ chính bảng mới được tiếp tục tham gia vào kì thi đình và được vinh quy bái tổ. 

Cách thức tổ chức thi hội và thi đình. 

Vào những khoa thi đầu tiên lượng sĩ tử tham gia còn ít vì vậy nên được tổ chức ngay trong khuôn viên trường Quốc tử giám. Còn về sau mỗi khoa thi vì lượng thí sinh từ các tỉnh đổ về nhiều nên môi lần thi triều đìng sẽ cho làm trường. 

Trường ở đây được làm bằng tre lợp tranh và được rào dậu xung quanh bằng nứa cẩn thận. 

Trường thi được chia thành 3 khu vực chính. Khu nội liêm để cho các khảo quan ở, các quan giám thị và các thi sinh thì được sắp xếp cho ở khu ngoại biên. 

Trường thi có kết cấu khá phức tạp. Trường thi được chia thành 8 ô vuông, để chia 8 ô vuông thành 4 phần bằng nhau người ta để một con đường chạy dọc và một con đường chạy ngang ở chính giữa (gọi là đường thập đạo). Giữa trung tâm của đường thập đạo được dựng một cái chòi nhỏ gọi là nhà thập đạo. Từ nhà thập đạo nhìn ra phía trước có một cái cửa được gọi là cửa tiền. Người ta cho dựng ba chòi canh một cái ngay giữa và hai cái hai bên theo đường thập đạo để cho các giám thị tiện trông coi việc thi cử. 


Tin liên quan 

Chế độ khoa cử thời phong kiến nước ta (phần 1)


Bên ngoài trường thi là hàng rào 4 mặt đều được vây kín. Triều đình thậm chí còn cho lính canh thường xuyên cưỡi ngựa tuần tra xung quanh để đảm bảo an toàn cho cuộc thi. Trong khi cuộc thi diễn ra có các quan coi thi thường xuyên kiểm tra đi lại gọi là quan trường. 

Sử sách nước ta không ghi chép lại nhiều về các quan trường thuộc ba triều đại nhà Lý, Trần, Hồ nhưng kể từ triều nhà Lê trở về sau các chức danh quan trường đều được ghi chép lại đầy đủ tại các bia đá ở Văn Miếu. Ngày nay nếu đến thăm văn miếu ta có thể thấy trên bia đá có khắc: Chánh chủ khảo, phó chủ khảo, một trị cống cử, sáu viên khải quan (đồng khảo), hai viên chánh phó đề điệu, hai viên giám đằng lục qua từng khoa thi. 

Về quy tắc chấm bài ở thi hội cũng có nhiều điểm khác biệt. Bài làm của thí sinh sẽ không được chấm trực tiếp mà phải qua quan giám đằng lục ở phòng sao chép rõ ràng, sau đó mới đưa bản sao bài làm ấy đi chấm. Trước khi bài thi được đưa đi chấm hai viên giám đằng phải một người đọc một người soát lại xem có sai sót gì trong quá trình ghi lại không- quá trìn này được gọi là đối độc. Sau đó quan đề điệu sẽ phát bài cho các nội liêm chấm trước, ngoại biên chấm sau. 

Trong suốt quá trình chấm bài các quan nội liêm ngoài nhiệm vụ chấm bài thi còn có nhiệm vụ theo dõi và phát hiện các tệ lậu diễn ra tại trường thi. Quan giám thi có chức trách giữ gìn an ninh trật tự cho cả trường thi. 

Sau khi lễ khai mạc diễn ra các bac quan văn võ sẽ chia ban và đứng chực ở hai bên thềm điện, nghi vệ, cờ xí, được treo lên trang hoàng lộng lẫy. Mọi người sau đó đều hành lễ theo hiệu lệnh trống. Hồi trống thứ nhất báo hiệu các quan văn võ sửa mũ áo và tiến sát đến cửa điện đứng chầu. Hồi trống thứ hai nổi lên kiệu vua ngự giá ra giữa điện. 

Thứ tự đứng của các quan và sĩ tử trong chiều lần lượt như sau: Quan tự ban (tổ chức) dẫn các quan văn chầu bên tả, các quan võ bên hữu, các sĩ tử đứng sau hàng quan văn. Đến khi nhà vua ngự giá thì phải lạy 5 vái. 

Các thí sinh được gọi vào trước ngự tọa để nhận giấy và bút sau đó mới được vào phòng làm bài. Sau khi làm và nộp bài xong bài thi của các thí sinh sẽ do đích thân nhà vua chấm. 

Đến ngày công bố kết quả các quan tân khoa sẽ được tiếp đi lễ triều ở điện Thái Hòa, các quan văn, quan võ thì chia ban, mũ áo chỉnh tề đứng chầu vua ở ngự điện. 

Các vị tân khoa sau khi hành lễ và nhận mũ áo vua ban xong sẽ được quan tuyên lễ xướng tên và yết bảng tại lầu Phu văn ba ngày và được nhà vua đãi yến tiệc tại sảnh đường bộ lễ.

Bộ lễ phát cho mỗi tân khoa gồm có một trâm cài đầu, được đưa đi thăm vườn thượng uyển, cưỡi ngựa đi thăm thú phố xá, kinh thành. Nhưng có thời những nghi thức trên chỉ dành cho tam khôi về vinh quy bái tổ. 

Khi tam khôi được cho về quê vinh quy bái tổ triều đình lệnh cho dân chúng nơi đó phải ra nghênh đón chu đáo, dân làng tổng phải làm đình nghè cho ở. 

Vậy nên cũng từ đó mà có các danh xưng như Ông Nghè là chỉ những Tiến sĩ từ đó mà ra. Không chỉ vậy triều đình còn cho dựng bia đá và khắc tên các Tiến sĩ lên để nêu gương cho con cháu ngàn đời sau.