Có rất nhiều yếu tố khác nhau để quyết định nên tính hiệu quả một bộ máy nhà nước. Nhưng có lẽ yếu tố quan trọng và mang tính quyết định nhất vẫn luôn là con người. Đúng như câu nói “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”.

Để nói về chế độ thi cử thời phong kiến ở nước ta là cả một chặng đường dài với nhiều những thay đổi theo các triều đại cai trị khác nhau. 

Khoa thi đầu tiên được tổ chức tại nước ta là khoa thi năm Ất Mão (1075) dưới triều vua Lý Nhân Tông và khoa thi cuối cùng là khoa thi năm Kỷ Mùi (1919)  dưới đời vua Khải Định. 



Có rất nhiều sự thay đổi về thể lệ của cuộc thi. Vào triều nhà Lý mỗi khoa thi cách nhau lên đến 12 năm; cho tới thời Trần dưới triều vua Trần Thái Tông vào khoa thi Kỷ Hợi (1239) nhà vua đổi lệ thi mới sang 7 năm một lần. Đến nhà Lê dưới đời vua Lê Thái Tông cho đổi lại thành 6 năm một kỳ. Mãi cho đến năm 1466 khi vua Lê Thánh Tông sửa lại thành 3 năm một kỳ thì lệ thi này được chấp nhận và được duy trì suốt cho đến cuối đời nhà Nguyễn. 

Trong khoa cử thời phong kiến có hai kì thi quan trọng bậc nhất mà bất cứ sĩ tử nào cũng phải vượt qua nếu muốn bước chân lên các chức quan cao hơn đó là thi hương (hương thí) và thi hội (hội thí). 


Thi hương (hương thí). 

Nền giáo dục nước ta thời xưa bắt đầu từ Sơ học (tính từ khi học trò bắt đầu đi học). Ở cấp Sơ học, học trò phải học về Sách Sơ học vấn tân (hỏi bến), Tam tự kinh (Kinh 3 tiếng), Tứ tự kinh (Kinh 4 tiếng), Ngũ ngôn (văn 5 tiếng). Bắt đầu tập làm văn bằng học làm câu đối 2 tiếng, 3 tiếng, 4 tiếng...., biết cách phân biệt các vần bằng, trắc. Không chỉ vậy học sinh còn phải biết kính trên, nhường dưới, thực hiện đúng: “Tiên học lễ hậu học văn”. 

Cho đến chừng 10 tuổi đổ lên học trò bắt đầu được học Tứ thư, Ngũ kinh, học lịch sử Trung Quốc, học Chư tử cửu lưu (9 dòng tư tưởng thời cổ đại Trung Quốc); học lịch sử Việt Nam (suối từ thời Hồng Bàng), tập làm văn, làm câu đối 7 tiếng, 8 tiếng trở lên tập làm câu đối phú, tập làm văn nghĩa. 

Ngày xưa hình thức các trường làng đa số là các trường tư (tư thục), thầy giáo được gọi là thầy đồ. Thầy đồ là do dân tự chọn đa số là những người thi đỗ nhưng không muốn ra làm quan hay những quan đã lớn tuổi xin được về quê dưỡng già. Triều đinh không đài thọ trường làng mà chỉ cho mở trường từ cấp huyện trở lên. Các quan quảng lý giáo dục thì được gọi là huấn đạo, ở phủ gọi là giáo thụ còn ở tỉnh là đốc học. 



Vào năm 1428 buổi đầu thời nhà Lê, Lê Lợi lúc đó mới xuống chiếu cho thiên hạ mở trường đào tạo nhân tài. Ở kinh đô thì có Quốc Tử Giám, ở các địa phương khác thì các các phủ, huyện học. Vua hạ lệnh cho các quan giáo thụ,huấn đạo cho phép chọn lựa rộng rãi con em các người lương thiện vào học ở phủ, huyện. Sau đó nhà vua sẽ đích thân chọn lựa người tài và cho vào học tại các trường ở kinh đô. 

Cho đến thời Lê Trung Hưng học sinh của các trường huyện mỗi kì học đều phải nộp tiền 5 mạch gọi là tiền minh kinh. Các trường huyện này thường chỉ nhận những học sinh có học lực khá giỏi. 

Để nói về hình thức học tập và thi cử thời phong kiến ta mới thấy các sĩ tử phải trải qua rất nhiều vòng sơ tuyển, khảo sát và chọn lọc kĩ càng mới có thể được đi thi hương. 

Hằng năm các trường đều tổ chức cho học sinh thi chất lượng gọi là khảo khóa, cuộc thi này thường được tổ chức vào tháng 4 âm lịch. Khảo khóa tổng cộng có 3 kỳ, ai vượt qua cả 3 kì mới được gọi là khóa sinh.

Các khóa sinh sẽ được miễn không phải đóng phen tạp dịch một năm để chuẩn bị cho kì thi hương. 

Trước kì thi hương 1 năm họ phải dự thi tiến ích vào tháng 11 âm lịch để kiểm tra sự tiến bộ trước khi tiến vào kì thi hương năm sau. 

Sau đó họ lại phải vượt qua một kì thi sát hạch nữa mới có thể được dự thi hương (thường được tổ chức trước thi hương 4 tháng). Thể lệ thi sát hạch sẽ do các quan đốc ở tỉnh phê duyệt. 

Trước khi thi hương 1 tháng hồ sơ của những người dự thi (bao gồm cả giấy chứng thực lý lịch của địa phương) phải được gửi về bộ Lễ. Đồng thời nững người có tiền án từng là lưu manh, côn đồ tuyệt nhiên không được ghi vào danh sách này. Lệ này ngày xưa được gọi là Bảo kết. 

Đến kì thi hương nếu như thực tế chất lượng thí sinh không đúng như kết quả các kì thi khảo hạch trước đó thì các quan đều sẽ bị phạt. Nếu như có từ 5 thí sinh không đạt yêu cầu trở lên thì quan sẽ bị cách chức, giáng cấp. 

Vào cuối thời Lê thậm chí còn có một số luật lệ khá hà khắc về đối tượng được phép dự thi hương. Những người còn ở quân tịch sẽ không được dự thi, con em phường chèo, phường bát cũng không có tư cách tham gia. 

Triều đình nhà Nguyễn còn cấm cả các thí sinh đang phải chịu tang bố và ông nội đều không đủ điều kiện để dự thi. 

Địa điểm và nội dung của kì thi. 

Thi hương là kì thi của một tỉnh hoạc liên tỉnh để chọn ra người tài tham gia vào các kì thi hội và thi đình. 

Những người đỗ trong kì thi hương cũng được chia thành hai loại. Loại thứ nhất là những người sẽ được cử đi tiếp tục thi hội. Họ được phong cho các danh hiệu như: Cống cử, Công sinh, Cống si, Hương tiến, Hương Cống... Loại thứ hai được gọi là Sinh đồ và là những người không được tiếp tụ dự thi hội. Người đỗ đầu trong kì thi hương được gọi là Giải nguyên hoặc đầu xứ. 


Tin liên quan 

Đội quân quả cảm giúp nhà Trần ba lần đánh bại quân Nguyên là ai?


Cho đến đời vua Minh Mệnh (1820-1840) thì các danh hiệu như Hương tiến được đổi thành Cử nhân và Sinh đồ đổi thành Tú tài. Những người đỗ Tú tài 2 khoa thì được gọi là Tú kép, ba khoa là Tú mền (hay ông Mền), bốn khoa là Tú đụp (hay ông Đụp). 

Nội dung của bài thi hương tổng cộng có 4 kì tuyển chọn và đã được định từ đời vua Lê Thánh Tông. 

Kì một: là bài thi gồm năm đề về Tứ thư, Ngũ Kinh.

Kì hai: là bài thi hỏi về chiếu, chế, biểu. Mỗi thể loại viết một bài theo lối cổ thể mà ngày xưa được gọi là thể văn tứ lục hay văn biền ngẫu, văn xuôi thì có hai vế vế sáu tiếng và vế bốn tiếng đối nhau. 

Kì ba: Đề bài kì ba thường là làm một bài thơ hoặc một bài phú. Phú được làm theo lối cổ thể (còn gọi là Tao tuyển) quy định phải từ 300 tiếng trở lên. Thơ làm theo thể Thất ngôn bát cú Đường luật (7 tiếng, 8 câu). 

Kì bốn: Làm một bài văn gọi là văn sách (viết tối thiểu từ 1000 tiếng trở lên). Đề tài của bài văn sách phải được rút ra từ kinh sử, tử, tập hỏi về thế vụ, ý thức về việc giúp nước cứu người. 

Ngạch lấy đỗ theo tỉ lệ: Cống sĩ 1, Sinh đồ 10 người. Ví dụ: vào năm 1708 ngạch đỗ ở trường Sơn Nam là 880 người thì số Cống sĩ là 60 và Sinh đồ là 800 người.

Về địa điểm tổ chức kì thi hương (hay còn gọi là trường thi) cũng có sự thay đổi nhất định qua các triều đại khác nhau. 

Ở thời Lê có tổng cộng 9 trường thi: Hải Dương, Sơn Nam, Tam Giang, An Bang, Thanh Hóa, Thuận Hóa, Tuyên Quang, Kinh Bắc, Nghệ An. 

Đến thời Nguyễn thì đổi thành 7 trường: Nghệ An, Thanh Hóa (gồm có cả Ninh Bình), Thái Nguyên (gồn cả Cao Bằng, Lạng Sơn), Sơn Tây (gồm cả Hưng Hóa và phủ Hoài Đức), Kinh Bắc (Bắc Ninh, Bắc Giang), Hải Dương (có cả Quảng Yên) và cuối cùng là Sơn Nam. 

Vào năm 1813 vua Gia Long cho mở thêm hai trường thi nữa đó là: Quảng Đức (gồm Thừa Thiên, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Định...). Trường thi thứ hai là Thăng Long (Hà Nội) gộp thêm cả trường Kinh Bắc, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang. 

Cho đến năm 1825 sau khi có tỉnh Nam Định thì trường Vị Hoàng (tức Sơn Nam cũ, được gọi là trường Nam Định) 

Dưới triều vua Minh Mệnh (năm 1831), nhà vua lại cho định lại 2 trường thi ở Bắc Kỳ: 

  1. Trường Hà Nội bao gồm tổng cộng 10 tỉnh: Hà Nội, Sơn Tây, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Ninh Bình, Thanh Hóa. 
  2. Trường Nam Định gồm 4 tỉnh: Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương và Quảng Yên. 

(Còn nữa)