Từng bức chạm ở chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự) đều lồng ghép những thông điệp một cách ý nghĩa mà rất tinh tế. Đây là một trong những di tích quốc gia đặc biệt nổi tiếng với nhiều bảo vật quốc gia nhất nước ta ở Bắc Ninh.

Thiền sư Huyền Quang và Chuyết Chuyết là những người rất nổi tiếng ở chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự). Không chỉ vậy, nơi đây còn có những thiết kế nổi tiếng về kiến trúc thời Lê - Nguyễn. Nét độc đáo trong kiến trúc không chỉ nằm ở vẻ đẹp nghệ thuật mà còn là những thông điệp liên quan đến khoa cử và sự vinh hiển.

 Tháp đá Báo Nghiêm, bức tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay, Cửu phẩm liên hoa … là những nét nổi bật ở chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự).

Trạng nguyên trụ trì



Ngôi chùa nổi tiếng tại tỉnh Bắc Ninh này đến nay vẫn chưa có tài liệu nào lưu giữ thông tin chính xác thời gian nó được hình thành. TS Lê Viết Nga - nguyên Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh cho hay.

Nhưng cũng có vài tài liệu như sách “Địa chí Hà Bắc” viết rằng chùa bắt đầu xây dựng từ đời vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278). 

Người xưa tuyên truyền một truyền thuyết “Tam tổ thực lực” nói về thiền sư Huyền Quang. Ông có tên thật là Lý Đạo Tái. Với vẻ bề ngoài khác thường và sự thông minh của mình đã giúp ông đỗ cả thi Hương, Hội rồi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ khoa thi năm 1272. Nhờ vậy, ông được thăng chức Hàn Lâm.

Trong một lần theo vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm huyện Phượng Nhãn. Sau khi Đạo Tái nghe những lời giảng kinh của Thiền sư Pháp Loa liền nghĩ lại mối duyên xưa và xin được xuất gia. Khi đó, ông hiệu là Huyền Quang và được giao phó trở thành thị giả của Trúc Lâm Đầu Đà. Ngọn tháp đá cao 9 tầng tựa hình hoa sen chính là do ông chủ trì xây dựng.

Trụ trì của Hòa thượng Chuyết Chuyết, người tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) nghe danh của ngôi chùa nổi tiếng này nên đã đến thăm Việt Nam vào năm 1633.

Năm 1644, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc rời bỏ tất cả về chùa tu hành và xuất tiền đại tu bổ thiền tự. Đồng thời, cùng lúc đó Chuyết Chuyết viên tịch được phong là “Minh Việt Phổ giác Quảng tế Đại đức thiền sư”.

Vào đầu thế kỉ 18, ngôi chùa Bút Tháp tiến hành tu sử khá nhiều. Bia “Ninh Phúc thiền tự bi ký” và “Khánh Lưu bi ký” dựng năm 1714 từng ghi lại rằng: “Chùa được các quan viên cho tu sửa thêm, chẳng tiếc ngàn vàng sắm mua toàn gỗ tốt, lại được dân làng góp sức và mời thợ cất dựng sửa sang. Với Điện thờ nguy nga, chùa chiền rộng rãi, trang điểm một bầu thế giới lưu ly”.

Cái tên chùa Bút Tháp ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt khi có bóng dáng ngọn tháp khổng lồ khi kinh lý đi qua vào năm 1876.

Thông điệp “rất đời” nơi thiền tự



Chùa Bút Tháp vẫn còn lưu giữ những giá trị về lịch sử - kiến trúc - mỹ thuật nổi bật dù trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng đâu đó vẫn còn nhiều điều chưa được giải đáp rõ ràng.

Một trong 3 bức tranh Đăng khoa, Phong hầu và Tước lộc được chạm tỉ mỉ và trưng bày ở những  vị trí ít quan trọng của cổ tự. 

Theo TS Nguyễn Xuân Diện - Viện Nghiên cứu Hán Nôm, trong lĩnh vực văn học nghệ thuật dân gian xuất hiện nhiều chi tiết của bức chạm “Đăng khoa”. Bức chạm trên có hình hai con cò (chữ Hán là Lộ 鹭) và hoa sen (Liên hoa 蓮花) . Hình ảnh con cò và hoa sen ẩn dụ cho bốn chữ Lộ Lộ Liên Hoa 鹭鹭蓮花 = Con cò.

TS Nguyễn Xuân Diện cho rằng: “Lộ là cò, đồng âm với lộ 路 là con đường; liên hoa 蓮花 là hoa sen, đồng/cận âm với chữ Liên khoa 連科 (liền khoa thi này đến khoa thi khác, không bị rớt khoa). Lộ Lộ Liên Hoa 鹭鹭蓮花, cận âm với Lộ Lộ Liên Khoa 路路連科. Bức chạm là ẩn dụ lời chúc: Đường khoa cử chặng nào cũng thuận, tiếp liền thi và đỗ. Đây là lời cầu mong bên cạnh Tước lộc, Phong hầu ở bức chạm bên cạnh”.

Tin liên quan

8 kho báu quý nhất thế giới mất tích đầy bí ẩn 


Một giải thích rất có lý rằng từ đồng âm với “Liên hoa” là “Liên khoa”, ý nghĩa là thi cử đỗ đạt liên tiếp. Khi hai con cò xuất hiện thì từ “Liên hoa”  sẽ đổi thành cách đọc khác là “Thanh liên”. Cả câu sẽ là: Lộ lộ thanh liên 鹭鹭青蓮, ý hiểu là Lộ lộ thanh liêm 路路清廉. Một ý nghĩa sâu xa trong câu nói trên là người làm quan cần có đức thanh liêm.

Bức chạm thứ hai có tên là “Phong hầu”. Trong bức tranh tái hiện khung cảnh khỉ đang trêu ong. Trong chữ Hán, khỉ tên là Hầu 猴, ong là Phong 蜂 - đồng âm với hai chữ Phong Hầu 封侯. Ý nghĩa của bức tranh chính là hy vọng sẽ được Phong hầu. Không chỉ vậy, hình ảnh cây đào đang cho chùm quả ngụ ý sẽ sống lâu trăm tuổi để được hưởng phúc. Tổng thể mang ý nghĩa sống thọ để được hưởng phong hầu.

Bức chạm thứ hai có tên là “Tước lộc”. Trong bức tranh tái hiện hình ảnh 2 loài động vật là chim sẻ và hươu. Trong chữ Hán, chim sẻ tên chữ Hán là Tước 雀, hươu là Lộc 鹿 - đồng âm với Tước Lộc 爵祿. Ý nghĩa của bức tranh chính là hy vọng sẽ được Tước lộc. Không chỉ vậy, hình ảnh cành lựu trĩu quả, mà lựu nhiều hạt biểu tượng cho sự sinh sôi nảy nở, đông vui nhộn nhịp. Tổng thể mang ý nghĩa  cầu mong nhiều tước lộc.

Những bức chạm lan can đá là nét nổi bật  ở chùa Bút Tháp khiến giới khoa học luôn cẩn trọng lý giải.